Thứ nhất, dân tộc
là một phạm trù lịch sử, ra đời, phát triển gắn với sự phát triển của lực lượng
sản xuất xã hội; vừa
tuân theo quy luật phát triển chung, vừa có những đặc thù. Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài
của xã hội loài người gắn liền với sự ra đời của xã hội có
giai cấp, có nhà nước. Ở
phương Đông, dân tộc ra đời trước khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Ở phương Tây, dân tộc ra đời gắn
với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, vấn đề dân tộc
quan hệ chặt chẽ với vấn đề giai cấp; áp bức giai cấp là nguồn gốc
của áp bức dân tộc. Trong xã hội có giai cấp, mỗi thành
viên của một dân tộc đồng thời là thành viên của một giai cấp nhất định. Trong
mỗi dân tộc, tùy theo sự phát triển của dân tộc, đều có các giai cấp và tầng
lớn khác nhau. Giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất sẽ chi phối quan hệ giai
cấp, quan hệ dân tộc. Giải quyết
vấn đề dân tộc phụ thuộc vào lợi ích, thái độ của giai cấp cầm quyền đối với từng
dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc.
Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc là
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng vô sản; vừa là mục tiêu vừa là động lực của
cách mạng vô sản. Xác lập quan hệ bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng phát triển giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc là mục tiêu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và cũng tạo nên động lực to lớn để giải quyết vấn đề giai
cấp. Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân trước hết phải trở thành dân tộc, đại diện cho lợi ích chính đáng của nhân
dân và dân tộc.
Thứ tư, vấn đề dân tộc chỉ được giải quyết triệt để khi và chỉ khi xử lý theo lập trường giai cấp công nhân. Lợi ích của giai cấp vô sản thống nhất với lợi ích chung của nhân dân và lợi ích dân tộc, thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sẽ xóa bỏ áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, áp bức con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét