Thứ Tư, 3 tháng 5, 2017

Nguồn gốc và đặc điểm của tiếng Việt

Tiếng Việt là ngôn ngữ của tộc người Việt (Kinh) - tộc người đa số ở Việt Nam, được dùng làm phương tiện giao tiếp chung từ lâu trong lịch sử dân tộc. Đến nay, các nhà khoa học đã thống nhất rằng: Tiếng Việt có nguồn gốc từ nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tiếng Thái về thanh điệu, ngữ pháp, và vay mượn khoảng 50% vốn từ tiếng Hán, về sau còn chịu ảnh hưởng một phần tiếng Pháp, Nga, Anh.
Tiếng Việt bắt đầu hình thành vào khoảng thiên niên kỷ thứ II tr.CN, có nguồn gốc từ tiếng Môn - Khơme, gọi là tiếng Việt-Mường chung, lúc này tộc người Việt và Mường chưa phân tách ra.  Đến giai đoạn thế kỷ IV - II tr.CN, tiếng Việt-Mường tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của nhóm ngôn ngữ Tày-Thái. Thời Bắc thuộc, tiếng Hán là ngôn ngữ hành chính, tiếng Việt vẫn được người dân sử dụng rộng rãi, nhưng bộ phận cư dân đồng bằng đã tiếp thu nhiều vốn từ tiếng Hán.
Thời kỳ độc lập tự chủ từ giữa thế kỷ X trở đi, tiếng Việt tiếp tục phát triển, nhân dân ta tiếp thu chữ Hán để sáng tạo ra chữ Nôm vào thế kỷ XI. Đến đây, cư dân Việt-Mường phân tách ra thành hai tộc người. Tiếng Việt là tiếng của tộc người Việt (Kinh). Chữ Hán và chữ Nôm cùng song hành tồn tại. Thời Pháp thuộc, chữ Hán giảm sút, tiếng Pháp được dùng làm ngôn ngữ hành chính, tiếng Việt bị chèn ép song vẫn tồn tại và phát triển. Chữ quốc ngữ của tiếng Việt bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XVII, là kết quả dùng chữ Latinh và hệ dấu của tiếng Bồ Đào Nha để phiên âm tiếng Việt.
Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, chữ quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi trong xã hội. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tiếng Việt trở thành quốc ngữ, sánh vai với ngôn ngữ các quốc gia khác; là tiếng phổ thông của cả nước, công cụ giao tiếp chung của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.
Các đặc điểm của tiếng Việt:
Thường xuyên tiếp xúc, tiếp thu các yếu tố của ngôn ngữ các dân tộc Việt Nam và tiếng Hán, tiếng Pháp, Nga, Anh để làm giàu thêm tiếng Việt; làm cho sự giao lưu giữa người Việt với các tộc người khác trên lãnh thổ ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Chính sự giao tiếp thường nhật mà tiếng Việt đã sớm trở thành ngôn ngữ chung của cả nước.
Tiếng Việt luôn phát triển, bổ sung vốn từ để đáp ứng mọi phương diện đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, giáo dục.
Có tính thống nhất cao, không kỳ thị phương ngữ. Bên cạnh các quy tắc chuẩn sử dụng tiếng nói và chữ viết tiếng Việt, ở các địa phương vẫn tồn tại các yếu tố riêng có tính địa phương về âm điệu, một số từ vị...

Tiếng Việt rất giàu sức sống, dù bị tiếng Hán, tiếng Pháp chèn ép trong hàng trăm năm nhưng không mất đi, trái lại đã tiếp thu và làm phong phú thêm để dần dần đấu tranh giành lại vị trí quốc ngữ của mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét