Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

QUAN ĐIỂM VỀ “LỢI ÍCH QUỐC GIA - DÂN TỘC” TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước luôn luôn phấn đấu vì mục tiêu cao cả là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XII của Đảng đã kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội trước và đưa ra quan điểm mới về lợi ích quốc gia – dân tộc để chỉ đạo các hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Lịch sử các quốc gia có chủ quyền bao giờ cũng quan tâm đến lợi ích quốc gia - dân tộc để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mình. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều triều đại kế tiếp nhau luôn luôn thực hiện phương châm mềm dẻo nhưng kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, bảo đảm cho sự trường tồn của dân tộc. Xuất phát từ thực tiễn thời đại, từ yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã đặt ra sự cần thiết cho Đảng ta phải có nhận thức mới về “lợi ích quốc gia - dân tộc”. Trong Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm mới về lợi ích quốc gia - dân tộc để chỉ đạo các mặt hoạt động của đất nước, trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, thể hiện trên một số vấn đề sau:
Một là, về cách diễn đạt thuật từ “lợi ích quốc gia, dân tộc”, ở Đại hội XI thì Đảng ta đã sử dụng thuật từ “lợi ích quốc gia, dân tộc”, song đến Đại hội XII, có sự thay đổi cách thể hiện về hình thức bằng dấu gạch nối trong thuật từ “lợi ích quốc gia - dân tộc”. Theo nghĩa rộng thì thuật từ “quốc gia” và “dân tộc” có tính độc lập tương đối nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nên dùng dấu gạch nối giữa hai cụm từ sẽ thể hiện rõ sự liên hệ của nó. Nói đến lợi ích quốc gia là nói đến yếu tố lãnh thổ, yếu tố nhân dân và Đảng, chính quyền Nhà nước; nói đến dân tộc là nói đến cộng đồng người sống trên lãnh thổ đó vì thế hai thuật từ “quốc gia và dân tộc” cần được thể hiện bằng dấu gạch nối là lôgíc và phù hợp.     
Hai là, phạm trù “lợi ích quốc gia - dân tộc” của Việt Nam được đặt ra trong điều kiện có những biến đổi mới của tình hình thế giới và trong nước. Dự báo trên thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. “Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng…tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực”[1].
Ở trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định. Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự ngiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”[2].
Ba là, vấn đề “lợi ích quốc gia - dân tộc” được khái quát là một bài học của 5 năm trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 và bài học của 30 năm đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ 5 bàn về lợi ích quốc gia - dân tộc là: “chủ động , tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”[3]. Tổng kết 30 mươi năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta đã rút ra 5 bài học trong đó có bài học thứ 4 bàn về lợi ích quốc gia “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[4].
Bốn là, “lợi ích quốc gia - dân tộc” là mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của quốc gia, của thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”[5]. Nội hàm của phạm trù “lợi ích quốc gia - dân tộc” đã được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, trong Đại hội XII của Đảng đã gắn vấn đề giữ vững chủ quyền; thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; ổn định chế độ chính trị; bảo đảm an ninh và an toàn cho người dân; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm các điều kiện cho quốc gia phát triển kinh tế, xã hội… 
Vấn đề bảo đảm “lợi ích quốc gia - dân tộc” là mục tiêu, nguyên tắc hoạt động hội nhập quốc tế và đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội XII của Đảng ta khẳng định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”[6].
Năm là, bảo đảm “lợi ích quốc gia - dân tộc” là trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Đảng, Nhà nước ta, sử dụng sức mạnh tổng hợp cả nội lực và ngoại lực để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoa dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[7].
 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về “lợi ích quốc gia - dân tộc” theo tinh thần Đại hội XII là rất toàn diện, biểu hiện ở nhiều cấp độ và nhiều lĩnh vực khác nhau. Về cấp độ có lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, có lợi ích sống còn và lợi ích quan trọng. Ở mỗi cấp độ của lợi ích quốc gia - dân tộc đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc xác định nội dung, cấp độ thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể bao giờ cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả bên trong, cả yếu tố bên ngoài, không áp đặt chủ quan.
Lợi ích của quốc gia Việt Nam là một phạm trù không phải trừu tượng chung chung, nên được nhận thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, cả về vật chất và tinh thần... Trên lĩnh vực chính trị: Là giữ vững ổn định chính trị - xã hội, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý của Nhà nước trong công cuộc đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực kinh tế: xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phù hợp thực tiễn của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khai thác hết tiềm năng trong nước, kế thừa thành tựu cuộc cách mạng khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức. Tích cực mở rộng và nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tạo việc làm, thu nhập từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm lưu giữ, phát triển các giá trị văn hóa của dân tộc trong điều kiện mới không bị phai nhạt. Nâng cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa nghệ thuật, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Phát huy ý thức tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam , vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước từng bước xây dựng nền văn hóa mới, con người mới mang đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực đối ngoại: Việt Nam muốn là bạn, đối tác tin cậy và có trách nhiệm trong quan hệ hợp tác với các nước trong cộng đồng quốc tế, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau và giải quyết các vấn đề bằng thương lượng cùng có lợi. Việt Nam luôn luôn mong muốn mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, xóa bỏ bất đồng, hướng tới tương lai và luôn giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc  và chủ nghĩa xã hội. Trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng: Việt Nam luôn tôn trọng chủ quyền của các quốc gia trên thế giới, đồng thời mong muốn các nước tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Việc duy trì an ninh, quốc phòng của đất nước nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, của toàn dân tộc Việt Nam. Việt Nam không muốn sử dụng sức mạnh quân sự để xâm lược, thôn tính nước khác mà nhằm mục đích răn đe các thế lực thù địch để giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước và từng bước hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Quan điểm của Đảng ta đặt “Lợi ích quốc gia - dân tộc” lên “trên hết” hay là “mục tiêu tối cao” để chỉ đạo các hoạt động của quốc gia trong điều kiện mới là đúng đắn. Đây là quan điểm không phải do tự phát, ngẫu nhiên hình thành mà đều có cơ sở lý luận và thực tiễn; là bài học rút ra từ quá trình đấu tranh cách mạng bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc trong lịch sử và hiện tại. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau thì lợi ích quốc gia - dân tộc là nội dung đấu tranh cốt lõi giữa các giai cấp, đặc biệt giữa giai cấp thống trị và bị trị, giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Mục đích của cuộc đấu tranh bảo vệ lợi ích của quốc gia - dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân là sự thể hiện thống nhất với lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động để bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của đất nước. Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là một khái niệm nói lên nhu cầu khách quan được hưởng thụ quyền độc lập, tự chủ, tự quyết định con đường phát triển của nhân dân Việt Nam do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam trong mọi hoạt động của mình, luôn phấn đầu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã thường xuyên chú trọng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII của Đảng là mốc đánh dấu 30 năm đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó đã vận dụng sáng tạo các nguyên lý của Chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời xuất phát từ thực tiễn thời đại và thực tiễn đất nước đã đề ra quan điểm mới về "lợi ích quốc gia - dân tộc" - quan điểm thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam và thể hiện tính lý luận và thực tiễn sâu sắc của cách mạng Việt Nam.


[1] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr.71
[2] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr.75
[3] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr.65
[4] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr.69-70
[5] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr.147-148
[6] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr.153

[7]Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr.36-37

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét