Ngay từ thời dựng nước, Việt
Nam đã là quốc gia đa dân tộc (tộc người).
Trong tiến trình phát triển hàng ngàn năm, các dân tộc dù quá trình tộc người
khác nhau nhưng luôn luôn sát cánh bên nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với
truyền thống: “Bầu ơi thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”. Cái “giàn” mà ông cha ta đã tổng kết chính là Tổ quốc Việt Nam của tất
cả chúng ta. Xuất phát từ đặc điểm đó, ông cha ta đã thực thi nhiều biện pháp
nhằm giải quyết vấn đề dân tộc trước yêu cầu phát triển quốc gia, đặc biệt là
trong thời cổ trung đại và di sản về vấn đề dân tộc trong lịch sử đã để lại
nhiều bài học quý giá cho hôm nay khi giải quyết vấn đề dân tộc. Chính vì vậy, ngay từ khi mới ra đời,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân tộc có vai trò và vị trí
đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Quán triệt những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nguyên tắc và định hướng chiến lược về chính sách
dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc. Có
thể khẳng định chính sách dân tộc của Đảng ta luôn được quán triệt và triển
khai thực hiện nhất quán trong mọi thời kỳ. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch
sử cụ thể, chính sách dân tộc của Đảng luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng
yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước.
Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi
mới, chính sách dân tộc của Đảng ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi mới
trước yêu cầu phát triển và hội nhập nhằm giải quyết thành công vấn đề dân tộc
ở nước ta hiện nay và trong tương lai.
Từ Đại hội IV đến Đại hội X của Đảng, chính sách dân tộc đã được
Đảng ta đề ra trên các vấn đề cốt lõi là: Vị trí của vấn đề dân tộc trong toàn
bộ sự nghiệp cách mạng; các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc; những
vấn đề trọng yếu của chính sách dân tộc trong những điều kiện cụ thể. Các nội
dung cơ bản trên đây đã được thể chế hóa và triển khai thực hiện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1. Vị trí của vấn đề dân tộc
trong sự nghiệp cách mạng
Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt trong việc xác định nguyên tắc
cũng như chính sách của Đảng ta về vấn đề dân tộc. Đại hội Đảng lần thứ IV xác
định: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều xác định
vị trí của vấn đề dân tộc trên hành trình đổi mới của đất nước. Đó là vấn đề
“có vị trí chiến lược lớn’’, “luôn
luôn có vị trí chiến lược’’, “có vị
trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta’’.
Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa IX đã ra nghị quyết chuyên đề
về công tác dân tộc. Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng ta về vấn đề
này trong kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết chỉ rõ: Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn xem vấn đề dân tộc,
công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong
cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính
sách dân tộc, với nội dung cơ bản là: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau
cùng phát triển’’. Trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác dân tộc đã đạt được
những thành tựu to lớn góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của
đất nước. Trên cơ sở đánh giá toàn diện vấn đề dân tộc và xuất phát từ yêu cầu
của tình hình mới, Nghị quyết khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là
vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện
nay của cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên, vấn đề dân tộc được xác định là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài có
tính xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng nước ta, đồng
thời Đảng ta còn xác định đây là vấn đề
cấp bách. Đây là luận điểm rất quan trọng thể hiện tầm nhìn chiến lược và
tư duy đổi mới trong bối cảnh quốc gia và quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi
mới.
Việc xác định vị trí của vấn đề
dân tộc của Đảng trên chính là xuất phát từ đặc điểm của cộng đồng quốc gia dân
tộc ở nước ta và coi đó là bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất
nước. Đây là cơ sở rất quan trọng để từ đó định ra các nguyên tắc cũng như
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế. Lênin đã từng chỉ rõ: “những sai biệt về mặt dân tộc
và quốc gia giữa các dân tộc và các nước, những sai biệt này sẽ còn tồn tại lâu
dài ngay cả sau khi nền chuyên chính vô sản được thiết lập trong phạm vi toàn
thế giới’’. Điều đó cho thấy chừng nào
còn có sự khác biệt về dân tộc thì dân tộc vẫn tồn tại và vẫn còn cơ sở xã hội
và thực tiễn cũng như nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn dân tộc và xung đột dân tộc, do
đó, vấn đề dân tộc vẫn tiếp tục đặt ra.
Đối với nước ta, vấn đề dân tộc thiểu số vừa là vấn đề giai cấp,
vừa là vấn đề miền núi, vừa là vấn đề biên cương, vấn đề an ninh quốc gia và
chủ quyền lãnh thổ, đồng thời đây cũng là vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, mà Đảng ta đã đề ra. Bài học của nhiều quốc gia trên thế giới những năm
cuối thế kỷ XX cho thấy nếu coi nhẹ vấn đề dân tộc và không xác định đúng vị
trí vấn đề dân tộc trong chiến lược phát triển quốc gia thì tất yếu dẫn đến
xung đột dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến sự
tồn vong quốc gia.
Sự tồn tại lâu dài của vấn đề
dân tộc nhất là trong điều kiện quốc gia đa tộc người, đa dạng về văn hóa là
đặc điểm lớn ở nước ta, làđặc trưng diện mạo lịch sử, văn hóa Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ghi nhận và khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam (Điều 5).
Khi xác định vấn đề dân tộc là nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta đã
quán triệt sâu sắc các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta. Điều
này tiếp tục được khẳng định trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính
sách của Nhà nước trong những năm đổi mới, đặt nền tảng quan trọng để Đảng và
Nhà nước ta xây dựng đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn, giải quyết thành
công vấn đề dân tộc.
2. Các nguyên tắc cơ bản trong
chính sách dân tộc
Ngay từ khi Đảng ta mới ra đời, các nguyên tắc cơ bản của chính
sách dân tộc đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện. Trong thời kỳ đổi mới,
các nguyên tắc cơ bản này tiếp tục được khẳng định và bổ sung thêm. Nếu như
trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh: đoàn
kết, bình đẳng giữa các dân tộc thì từ Đại hội VI trở đi các nguyên tắc này đã được
xác định là: “Đoàn kết, bình đẳng,
giúp đỡ lẫn nhau’’ (Đại hội VI), “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau” (Đại
hội VII), “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’’ (Đại hội VIII), “Bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’ (Đại hội IX), “Bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’ (Đại hội X).
Bình đẳng giữa các dân tộc: là một nguyên tắc cơ bản
về chính sách dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nguyên tắc này đã được thể
hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và các Hiến pháp ở nước ta. Hiến pháp đầu tiên ở nước ta năm 1946
đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo’’. Các Hiến pháp tiếp theo đã thể hiện rõ
nguyên tắc quan trọng này.
Bình đẳng giữa các dân tộc là
bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Bình đẳng còn thể hiện
trong quyền phát triển, được đảm bảo và tạo mọi điều kiện để các dân tộc thực
hiện và có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Để thực hiện bình
đẳng dân tộc thì phải làm giảm, tiến tới từng bước xóa bỏ khoảng cách giữa các
dân tộc do các điều kiện lịch sử quy định trên thực tế mang lại ấm no hạnh phúc
của nhân dân.
Đoàn kết dân tộc: là một nguyên tắc cơ bản của
chính sách dân tộc mà Đảng ta xác định. Phát triển nguyên tắc đoàn kết giai cấp
công nhân tất cả các dân tộc của Lênin, trên nền tảng truyền thống Việt Nam,
Đảng ta coi đoàn kết dân tộc có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất
nước. Hồ Chí Minh đã nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành
công, đại thành công’’. Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí
chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết các dân tộc đã
tạo nên sức mạnh to lớn để giành lại nền độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, đoàn kết các dân tộc nhằm hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các
dân tộc ở nước ta được làm chủ vận mệnh của mình trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đó chính là cơ sở để chúng ta thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách dân tộc của Đảng.
Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ giữa các dân tộc: Nguyên tắc này xuất phát từ một thực tế lịch sử là sự phát triển
không đều giữa các dân tộc khi chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước trong cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực trạng phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta cho thấy, sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội là một đặc
điểm lớn. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau là sự giúp đỡ của dân tộc này với dân tộc
khác, không phải là sự giúp đỡ một chiều. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau vừa là yêu
cầu, vừa là mục tiêu của sự phát triển, vì sự phát triển bền vững của cộng đồng
quốc gia dân tộc. Đó cũng chính là bản chất của chính đảng vô sản. Để thực hiện
vấn đề này, vai trò của nhà nước và hệ thống chính trị rất quan trọng. Trong
các văn kiện của Đảng, nguyên tắc tương trợ được bổ sung các thành tố tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng
tiến bộ. Có thể coi đây là một nguyên tắc đối với vấn đề dân tộc trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Bình đẳng là cơ sở để đoàn kết, đoàn kết là biểu hiện thực hiện
bình đẳng và tương trợ giúp đỡ nhau là điều kiện để thực hiện bình đẳng và đoàn
kết. Các nguyên tắc cơ bản trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, được xác
định và triển khai đồng bộ trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện
chính sách dân tộc ở nước ta.
3. Những vấn đề cơ bản của
chính sách dân tộc
Trên cơ sở những nguyên tắc trên, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta
đã đề ra những nội dung cơ bản của chính sách dân tộc trong giai đoạn mới của
cách mạng. Có thể nói, đây là thời kỳ có không ít tác động đối với các dân tộc
thiểu số. Đó là tác động của cơ chế thị trường, của nền kinh tế nhiều thành
phần và của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đấy là chưa nói đến quá
trình toàn cầu hóa và tác động từ bối cảnh chung của tình hình quốc tế phức
tạp. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề dân tộc phải có các chính sách hệ
thống, toàn diện đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, phù hợp với quá trình phát
triển của đất nước.
Nội dung của chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
- Chính sách về phát triển kinh
tế vùng các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng thế mạnh của vùng đồng bào
các dân tộc, gắn với kế hoạch phát triển chung của cả nước, đưa vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số cùng cả nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đây là một trong những vấn đề có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện
chính sách dân tộc trong hoàn cảnh và điều kiện mới với mục tiêu tạo sự chuyển biến
căn bản diện mạo và đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Chính sách xã hội tập trung vào các vấn đề giáo dục - đào tạo,
văn hóa, y tế... nhằm nâng cao năng lực, tạo tiền đề và các cơ hội để các dân
tộc có đầy đủ các điều kiện tham gia vào quá trình phát triển, để trên cơ sở đó
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào.
- Chính sách liên quan đến quốc phòng - an ninh, nhằm củng cố các
địa bàn chiến lược, giải quyết tốt vấn đề đoàn kết dân tộc và quan hệ dân tộc
trong mối liên hệ tộc người, giữa các tộc người và liên quốc gia trong xu thế
toàn cầu hóa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI mở đầu công cuộc đổi mới đã
khẳng định: “Thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Trong
việc phát triển kinh tế - xã hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu
số, cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ gắn bó tốt
đẹp giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm
chủ tập thể; kết hợp phát triển kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất
và chăm lo đời sống con người, kể cả những người từ nơi khác đến và dân tại
chỗ. Chống những thái độ và những biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn’’ và những
biểu hiện của dân tộc hẹp hòi’’.
Để triển khai những định hướng cơ bản đó, ngày 27-11-1989, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách
lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Tiếp sau đó, Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) đã thể chế hóa bằng Quyết định số 72-HĐBT ngày 13-2-1990 về một
số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Đây là
hai văn kiện quan trọng đánh dấu sự đổi mới hoạt động công tác dân tộc và chính
sách dân tộc.
Từ những định hướng quan trọng đó, bước vào thập niên 90 của thế
kỷ XX, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã vạch ra những nội dung cơ bản về
chính sách phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ dân tộc và làm rõ thêm: “Đoàn
kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là
chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc
thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc,
đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm
giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tôn trọng
tiếng nói và có chính sách đúng đắn về chữ viết đối với các dân tộc. Đặc biệt
có chính sách khắc phục tình trạng suy giảm dân số đối với một số dân tộc ít
người’’.
Lần đầu tiên chính sách phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc
thiểu số đã được đề cập trong điều kiện cụ thể lúc bấy giờ. Trong các văn kiện
của Đại hội cũng đã đề cập về chính sách đối với người Hoa và người Khơme nhằm
tiếp tục củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Cùng với việc xác định công tác dân
tộc ở một số dân tộc cụ thể, Đảng và Nhà nước ta còn đưa ra các chính sách đối
với các vùng dân tộc như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên trên cơ sở xem xét tính
đặc thù của từng vùng và yêu cầu phát triển đối với khu vực và quốc gia.
Cùng với tiến trình đổi mới, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
ở nước ta tiếp tục được Đảng ta bổ sung và cụ thể hóa. Đại hội Đảng lần thứ
VIII xác định: “Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân... Xây dựng Luật dân tộc. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’’
giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Từ nay (tức năm 1996 - T.G) đến năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực
và vững chắc, thực hiện cho được ba mục tiêu chủ yếu: xóa được đói, giảm được
nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào các dân tộc,
đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng
và phát huy bản sắc tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội
ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch, vững
mạnh’’.
Chính sách dân tộc trong giai đoạn này đặc biệt chú trọng vào việc
xác định mục tiêu phát triển và định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng các
dân tộc thiểu số với những trọng tâm rất quan trọng về đời sống và dân trí.
Chính vì thế, chủ trương xóa đói, giảm nghèo đã được triển khai khá rộng khắp ở
nước ta tại vùng các dân tộc thiểu số. Cùng với chương trình xóa đói, giảm
nghèo, Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
ở miền núi, vùng sâu, vùng xa được triển khai đã mang lại những chuyển biến to
lớn ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi và không phải ngẫu nhiên sự thành công
của chính sách này đã được thế giới đánh giá là tiêu
điểm trong sự phát triển kinh tế - xã hội vì con người và mục tiêu
thiên niên kỷ của nhân loại.
Trên cơ sở đó, Đại hội lần thứ IX của Đảng cụ thể hóa và đưa ra
những chủ trương định hướng mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhất quán về
nguyên tắc và những luận điểm của các đại hội Đảng đã đề ra trước đó, Đảng ta
tiếp tục chủ trương đối với các dân tộc thiểu số cần phải: xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế hàng hóa, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí..., thực
hiện công bằng xã hội giữa
các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó
khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện
chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động
viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu có uy tín trong dân tộc và địa
phương. Chống kỳ thị chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc’’. Văn kiện
cũng đề ra chủ trương: nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn
giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối xâm phạm an ninh quốc gia.
Tư tưởng công bằng
xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi là một trong
những định hướng rất quan trọng trong chính sách dân tộc của Đảng ta cùng với
những nội dung khá toàn diện khác liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
xã hội, đào tạo cán bộ...
Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa IX đã đề ra một số quan điểm
cơ bản và xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2010, đồng thời nêu lên những
nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cũng như các giải pháp cụ thể về công tác dân tộc
trong thời kỳ mới.
Một số quan điểm cơ bản được Đảng ta xác định cùng với việc khẳng
định vị trí của vấn đề dân tộc là:
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an
ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh
tế với giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm
phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống của
các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc
Việt Nam thống nhất.
- Ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền
núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và kết cấu hạ tầng, xóa
đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi
đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự
lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự hỗ trợ của Trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống
chính trị.
Trên cơ sở đánh giá những hạn chế yếu kém về công tác dân tộc
trong công tác dân tộc giai đoạn này, Nghị quyết cũng đề ra những nhiệm vụ chủ
yếu và cấp bách là:
- Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống
của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa; trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc
đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu
lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng
cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở và
tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây
Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khơme Nam Bộ.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng
biên giới. Làm tốt công tác định canh, định cư và di dân xây dựng vùng kinh tế
mới; công tác quy hoạch, sắp xếp, phân bổ lại hợp lý dân cư, nguồn nhân lực
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, gắn với bảo vệ
an ninh, quốc phòng.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát
thanh, truyền hình; tăng cường các hoạt động văn hóa thông tin, tuyên truyền
hướng về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát
thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số, làm tốt công tác nghiên cứu,
sưu tầm, gìn giữ và phát huy các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa
các dân tộc.
Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các
chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào
tạo, nhất là trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp; đẩy mạnh việc tổ chức
các trường mẫu giáo công lập; mở rộng việc dạy chữ dân tộc. Đa dạng hóa phát
triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc, đưa
chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú; tiếp tục thực hiện chính
sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em các dân tộc vào học tại các trường đại
học và cao đẳng; mở thêm trường dự bị dân tộc ở miền Trung, Tây Nguyên. Nghiên
cứu tổ chức trường chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ người dân tộc
thiểu số.
Tăng cường cơ sở khám, chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, bản,
thôn, ấp; nâng cao hơn nữa công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc
thiểu số, khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian.
- Củng cố và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa IX) về kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở,
kiên quyết khắc phục tình trạng xa dân của một số cán bộ; thực hiện tốt công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển cán bộ. Đẩy
mạnh phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc...
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân
dân, phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan âm mưu phá hoại của các thế
lực thù địch; tăng cường công tác an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội,
không để xảy ra những điểm “nóng’’ về an ninh trật tự xã hội ở vùng dân tộc và
miền núi.
Tiếp tục phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp quốc phòng ở
vùng sâu, vùng xa.
Thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân tộc và
miền núi; kiên quyết ngăn chặn việc lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tự do
tín ngưỡng để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.
- Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với nhiệm
vụ trong tình hình mới.
Các quan điểm và những nhiệm vụ
cấp bách, cơ bản trên tiếp tục được khẳng định và làm rõ thêm tại Đại hội lần
thứ X của Đảng. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: “Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân
trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống
tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt
công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ,
sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các
dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức
là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt
công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc’’12.
Đại hội X của Đảng đã đề ra những vấn đề cơ bản nhất về chính sách
dân tộc hiện nay ở nước ta. Để triển khai những vấn đề quan trọng trên đây,
trong những năm qua, Chính phủ đã triển khai và ban hành hàng loạt các chương
trình dự án nhằm tạo nên sự chuyển biến cơ bản, toàn diện vùng các dân tộc
thiểu số. Gần đây, trên cơ sở những thành tựu của Chương trình 135 giai đoạn I,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã
đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cũng như hàng loạt
các chính sách, biện pháp về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới chính là sự
kế thừa và phát triển chính sách dân tộc của Đảng đã được vạch ra cùng với sự
ra đời và trưởng thành của Đảng; là sự vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Đó chính là tiền
đề, là điều kiện quan trọng nhất để giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước
ta trên hành trình đổi mới.
-------------------
Nguồn: http://dangcongsan.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét