Nhằm
chuyển hóa chế độ xã hội ta sang con đường “dân chủ, nhân quyền” phương Tây, những
kẻ tự xưng yêu nước, bất đồng chính kiến nêu ý kiến, “phản biện” và “kiến nghị”:
“Đảng Cộng sản Việt Nam phải “thay đổi cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về
xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối “dân tộc và dân chủ”, trọng tâm là
chuyển đổi thể chế chính trị “từ chế độ toàn trị sang dân chủ…”, mà thực chất
là chuyển sang mô hình “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ngoại nhập. Họ
còn nói, chế độ hiện hữu là chế độ “độc tài Đảng trị”. Những người vi phạm pháp
luật bị xử lý họ gọi là “dân oan”, là người “bất đồng chính kiến ôn hòa”, thậm
chí là người “yêu nước”…
Dân
chủ là một hình thức tổ chức và thiết chế dựa trên nguyên tắc: Nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do và một thể chế nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân. Giá trị của dân chủ là ở chỗ,
đó là động lực cơ bản của sự phát triển xã hội.
Chính
vì vậy trong các hình thái kinh tế xã hội, giai cấp cầm quyền luôn sử dụng dân
chủ như một nhân tố nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng, của chế độ xã hội và
của dân tộc.
Nền
dân chủ của dân tộc ta ra đời trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nền dân
chủ đó đã được thử thách, trải nghiệm trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược,
để lại dấu ấn thời đại. Nền dân chủ đó cũng đã được trải nghiệm trong hai mô
hình xây dựng chủ nghĩa xã hội: Mô hình CNXH kiểu cũ, mà đặc trưng là: Vê chính
trị, đó là nhà nước chuyên chính vô sản… Về kinh tế, đó là nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu với hai thành phần duy nhất...
Mô
hình mới của CNXH đã khắc phục được nhiều hạn chế của mô hình cũ. Đặc trưng của
mô hình đó là: Về chính trị, đó là xã hội do nhân dân làm chủ với nhà nước pháp
quyền do Đảng ta lãnh đạo. Về kinh tế, đó là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Một trong những nội dung quan trọng của mô hình CNXH kiểu mới đó là quyền
làm chủ trực tiếp của nhân dân. Chỉ thị số 30 CT/TW (ngày 18/2/1998, của Bộ
Chính trị) đã đề ra xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở. Phương châm của Quy chế
này là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Mặc
dù đã đạt được những thành quả to lớn, song sau gần 30 năm đổi mới Đảng ta đã
thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm. Đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo, tham
nhũng, lợi ích nhóm, “bệnh nhiệm kỳ”…; quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi,
trên một số lĩnh vực còn bị vi phạm… Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã công
khai, thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là sự suy
thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên các cấp.
Thể
chế hóa Cương lĩnh của Đảng, Quốc hội Khóa XIII đã xây dựng và ban hành Hiến
pháp 2013. Nhiều quy định trong dự thảo xây dựng và sửa đổi các đạo luật được
các đại biểu lấy việc bảo đảm các quyền con người trong Hiến pháp 2013 làm một
tiêu chí. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và triển khai Hiến pháp 2013, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, đã và đang tập trung nâng cao chức năng “giám sát” và “phản
biện”. Đây là một khía cạnh mới, nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân thông
qua các tổ chức đoàn thể xã hội.
Trong
nền dân chủ của chúng ta, vai trò lãnh đạo của Đảng là một nguyên tắc. Tuy
nhiên, Đảng ta cho rằng phải có quy định để vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng,
vừa ngăn ngừa sự lạm quyền của tổ chức và cán bộ, đảng viên. Điều 4, Hiến pháp
2013, quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam… gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ
Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân... Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Trên
lĩnh vực kinh tế, quyền lợi của người lao động đã thật sự được Đảng, Nhà nước,
tổ chức Công đoàn lắng nghe và đáp ứng. Vừa qua (tháng 6/2015) Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết về việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với
người lao động sau một năm nghỉ việc. Hoặc gần đây, Hội nghị về xác định mức
tăng lương tối thiểu giữa Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam -đại diện người lao
động với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) người đại diện cho
doanh nghiêp đã diễn ra khá gay cấn.
Hai
bên đã không đi đến thỏa thuận. Và cuối cùng phải nhờ đến Hội đồng tiền lương
Quốc gia đưa ra quyết định. Đây là một bước tiến mới trong việc bảo vệ quyền lợi
của người lao động theo cơ chế “ba bên” của chế độ ta.
Theo
tinh thần bảo đảm để nhân dân được tham gia vào tất cả các công việc liên quan
đến lợi ích của mình, ngày 15/9 vừa qua, Đảng ta đã cho công bố rộng rãi toàn
văn Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng. Thực tế cho thấy không chỉ những vấn
đề của Nhà nước mà ngay cả những vấn đề của Đảng cũng đã được công bố rộng rãi
để tranh thủ ý kiến của nhân dân.
Như
vậy có thể nói, mặc dù nền dân chủ của chúng ta còn không ít vấn đề cần giải
quyết, như cần bảo đảm tính cân bằng và sự giám sát có hiệu quả giữa các nhánh
quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp), nhưng không thể nói: “Chế độ ta là chế
độ “độc tài Đảng trị”, càng không thể nói, trong chế độ đó “người dân không có
bất cứ một quyền gì”. Lịch sử hơn 70 năm Cách mạng Việt Nam cho thấy: Nền dân
chủ của xã hội ta không thể thoát ly các điều kiện của lịch sử và luôn luôn được
điều chỉnh, phát triển phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét