Thứ Sáu, 7 tháng 9, 2018

QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO NGÀY CÀNG ĐƯỢC ĐẢM BẢO TỐT HƠN

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước VIệt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Quyền này được thể hiện rõ ở những quan điểm, chủ trương, hiến pháp, pháp luật và được bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Theo đó, Đảng và Nhà nước ta “thực hiện chính sách nhất quán tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
Với chính sách nhất quán đó, trong những năm qua việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu được cộng đồng quốc tế ca ngợi.
Thứ nhất, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là bước rất quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế quan trọng, Việt Nam cam kết tôn trọng và bảo đảm cho người dân các quyền đã được công nhận trong các công ước bằng hoạt động lập pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các quyền con người được các công ước ghi nhận.
Thứ hai, để luật hóa quy định của Hiến pháp 2013 đồng thời khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo sau hơn 10 năm thực hiện, kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa 14 đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 1-1-2018. Đây là lần đầu tiên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được luật hóa một cách cụ thể, đầy đủ thành một chế định riêng và có nhiều điểm mới so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004. Ví dụ, tại Điều 6 của luật này, bên cạnh việc khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi người, điều luật còn quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người được thực hiện thông qua việc bày tỏ niềm tin, thực hành lễ nghi, tham gia lễ hội tín ngưỡng tôn giáo, học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ ba, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân trên thực tế. Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách chăm lo đến đời sống của đồng bào theo tôn giáo. Theo đó, các bộ, ngành, đoàn thể và các địa phương đã cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bằng nhiều chương trình hành động và kế hoạch thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tập trung giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, phát triển văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào có đạo.
Như vậy, đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam phát triển song hành cùng sự phát triển của dân tộc. Trong sự phát triển phong phú ấy, vai trò của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm tạo ra một môi trường thông thoáng, tạo điều kiện để mọi người dân được tự do thực hành tín ngưỡng tôn giáo của mình đóng vai trò hết sức quan trọng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét