Bình đẳng giới về chính trị là việc nam giới và nữ
giới có vị trí, vai trò ngang nhau trong điều kiện phát triển năng lực cũng như
cơ hội tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Luật
Bình đẳng giới quy định: nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước;
hoạt động xã hội, hoạt động hương ước của cộng đồng; bình đẳng trong việc tự ứng
cử và được giới thiệu để bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, vào
các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội...
Thể chế kinh tế - xã hội là hệ thống các quy định
gồm: Hiến pháp, các luật, quy định, chế định... nhằm hài hòa các quyền, lợi ích
và trách nhiệm của mọi công dân, tổ chức trong xã hội. Thể chế được điều chỉnh
thích ứng với những thay đổi của chế độ chính trị, có vai trò quyết định đến sự
hình thành và hoạt động của cơ chế, chính sách, cơ chế điều hành và hành vi ứng
xử của con người. Thể chế chính thức là hệ thống các quy định, quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước; thể chế phi chính thức là các
dư luận xã hội góp phần hình thành đạo đức, lối sống của con người.
Hiện nay, quan điểm chung của nhiều quốc gia là khuyến
khích trao quyền và hỗ trợ phụ nữ tham chính nhiều hơn. Tuy nhiên, tăng quyền
năng chính trị cho phụ nữ hướng tới bảo đảm bình đẳng giới vẫn phụ thuộc rất
nhiều vào tác động của các yếu tố thể chế trong xã hội. Tác động của thể chế đến
thực hiện bình đẳng giới trong chính trị còn được thể hiện ở tỷ lệ đại diện
trong bầu cử và chỉ tiêu giới trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý cũng như mức
độ dân chủ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã sớm khẳng định vị trí, vai
trò và khả năng to lớn của phụ nữ đối với sự tiến bộ của xã hội; đồng thời,
cũng chỉ ra nguồn gốc bất bình đẳng giới. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng chỉ ra các điều kiện, biện pháp để giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng
nam nữ; coi giải phóng phụ nữ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cuộc
cách mạng vô sản.
Tuy không có trước tác bàn riêng về vấn đề giải phóng
phụ nữ, song những quan điểm mang tính phương pháp luận và lý luận quan trọng của
C. Mác, Ph. Ăng-ghen về vị thế của phụ nữ, lao động và việc làm, áp bức phụ nữ,
giải pháp giải phóng phụ nữ,... đã được thể hiện trong nhiều tác phẩm của các
ông và được đánh giá có tầm ảnh hưởng lớn đến các tiếp cận lý thuyết, tư tưởng
về bình đẳng giới. Ngay từ năm 1844, trong Bản thảo kinh tế - triết học,
C. Mác lập luận vị trí của phụ nữ trong xã hội có thể được sử dụng như là một
thước đo cho sự phát triển của toàn xã hội khi trích dẫn lại luận điểm nổi tiếng
của Phu-ri-ê rằng, trong một xã hội nhất định, trình độ giải phóng của phụ nữ
là cái thước tự nhiên dùng để đo sự giải phóng chung. Trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản và bộ Tư bản, các ông đã đề cập đến địa vị của
người phụ nữ và ảnh hưởng của máy móc công nghiệp đến đời sống phụ nữ và gia
đình của họ. Các ông khẳng định: Chỉ có thể giải phóng phụ nữ khi người phụ
nữ có thể tham gia sản xuất trên quy mô xã hội rộng lớn.
Kế thừa quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I.
Lênin đánh giá cao vai trò, tiềm năng của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng.
Trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin khẳng định, “không thể
nào xây dựng được ngay cả chế độ dân chủ - chứ đừng nói đến chủ nghĩa xã hội, nếu
phụ nữ không tham gia vào công tác xã hội, đội dân cảnh, sinh hoạt chính trị...”.
Một yêu cầu được V.I. Lênin đưa ra trong xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
“hủy bỏ mọi sự hạn chế, không loại trừ một sự hạn chế nào đối với các quyền
chính trị của phụ nữ so với các quyền của nam giới... đặc biệt làm cho phụ nữ
quan tâm tới chính trị”, bởi địa vị của phụ nữ về mặt pháp lý là cái tiêu biểu
nhất cho trình độ văn minh. Muốn giải phóng con người và hiện thực hóa quyền
con người cần phải dựa trên cơ sở sự giải phóng trước hết về chính trị. Do vậy,
thực hiện quyền chính trị cho phụ nữ chính là cơ sở để thực hiện các quyền con
người khác của phụ nữ.
Trong các thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, một số quốc
gia đã đề cập quan điểm Phụ nữ trong phát triển (WID). Quan điểm này đòi hỏi
thu hút sự tham gia của phụ nữ với tư cách là người hưởng thụ và thực hiện các
mục tiêu phát triển. Tới những năm 90 của thế kỷ XX, quan điểm này nhấn mạnh sự công
bằng giới (Gender Equity) và tăng quyền năng cho phụ nữ để đạt đến bình
đẳng giới (Gender Equality) và đòi hỏi xem xét vấn đề giới trên tất cả
phương diện. Quan điểm Lồng ghép giới (GM) xuất hiện cuối thế kỷ XX,
đầu thế kỷ XXI, đưa vấn đề giới vào tất cả các lĩnh vực, như luật pháp, chính
sách, khoa học, giáo dục, kinh tế để tiến tới bình đẳng giới một cách toàn diện.
Phụ nữ lãnh đạo và tham chính là một trong những vấn đề
giới nổi bật trong thế kỷ XXI. Theo nhiều nhà khoa học chính trị, lãnh đạo nữ
thường đưa ra những quyết định theo định hướng sáng tạo, để tạo ra sự ổn định
và phát triển chung cho xã hội. Việc nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ cũng
như tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển, tham gia lãnh đạo, ra quyết định là điều
mà tất cả các quốc gia cần quan tâm, hướng tới trong xu thế phát triển bền vững
hiện nay.
Bài viết rất hay, xin cảm ơn
Trả lờiXóaTăng quyền năng chính trị cho phụ nữ hướng tới bảo đảm bình đẳng giới phụ thuộc rất nhiều vào tác động của các yếu tố thể chế trong xã hội.
Trả lờiXóa