Trong những thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước ta luôn xác
định dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Trước năm 1975, mức sinh và tỷ lệ gia tăng dân số miền Bắc còn rất
cao. Sớm nhận thức được nguy cơ tăng quy mô dân số quá nhanh ảnh thưởng tiêu cực
đến điều kiện phát triển kinh tế và môi trường, Đảng và Nhà nước đã ban hành
chính sách giảm sinh thông qua tuyên truyền, vận động sinh đẻ có kế hoạch, cung
cấp và hướng dẫn sử dụng các biện pháp tránh thai. Mặc dù có không ít trở ngại
cả về chủ quan và khách quan trong thời chiến, việc triển khai chính sách là yếu
tố chủ yếu làm giảm mức sinh ở miền Bắc từ trên 6 con vào năm 1960 xuống còn
khoảng 5,2 con mỗi phụ nữ vào năm 1975. Sau khi đất nước thống nhất, chính sách
dân số vẫn nhằm mục tiêu chủ yếu là giảm sinh và được triển khai trên toàn quốc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng năm 1976 tiếp tục chủ
trương đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần
tốc độ tăng dân số. Chủ trương này một lần nữa được khẳng định trong Nghị quyết
Đại hội lần thứ V của Đảng năm 1982. Đến năm 1985, mức sinh của Việt Nam giảm
xuống còn khoảng 4,5 con, nhưng mục tiêu giảm tỷ lệ phát triển dân số đã không
đạt được. Trước thực trạng đó, Đảng ta nhận định mức sinh và tỷ lệ gia tăng dân
số cao vẫn là rào cản đối với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng năm 1986 tiếp tục chú trọng vấn đề dân số và giảm sinh, với mục
tiêu giảm tỷ lệ phát triển dân số từ 2,2% xuống 1,7% vào năm 1990. Trên cơ sở
đó, Chính phủ ban hành và triển khai chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình
cương quyết hơn, coi đây là chương trình quốc gia trọng điểm mà trọng tâm là
chính sách “1 đến 2 con” được áp dụng trong hơn hai thập kỷ. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định phải thật
sự coi việc giảm tốc độ tăng dân số là quốc sách và điều này tiếp tục được khẳng
định trong Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng năm 1996. Quyết tâm của
Đảng và Nhà nước được cụ thể hóa qua việc thành lập Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế
hoạch hóa gia đình, cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về dân số - kế
hoạch hóa gia đình và điều phối Chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình vào
năm 1991. Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước luôn bám sát tình hình thực tiễn,
ban hành nhiều văn bản, chính sách dân số quan trọng, như Nghị quyết số
47-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII, ngày 14-1-1993, “Về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình”, Chiến lược dân số - kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000, Chỉ thị số
37-TTg, ngày 17-1-1991, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc đẩy nhanh thực hiện
chiến lược dân số - kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000”… Sự lãnh đạo, chỉ đạo
quyết liệt của Đảng, việc huy động cả hệ thống chính trị, các cấp chính quyền,
các ban, ngành, đoàn thể và hệ thống quản lý chương trình dân số - kế hoạch hóa
gia đình từ Trung ương đến địa phương, cùng với sự hợp tác tích cực của Quỹ Dân
số Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học trong và ngoài nước,…
đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của toàn dân và đem lại hiệu quả
rõ rệt. Công tác thống kê và nghiên cứu về dân số - kế hoạch hóa gia đình được
đẩy mạnh cả về số lượng và chất lượng. Kinh nghiệm giảm sinh của các nước đi
trước ở Đông Nam Á và trên thế giới cũng rất hữu ích cho việc xây dựng chính
sách dân số ở Việt Nam. Cùng với tác động của biến đổi kinh tế - xã hội, chính
sách dân số - kế hoạch hóa gia đình đã góp phần làm mức sinh ở nước ta giảm mạnh
trong thập kỷ 1990, xuống còn 2,33 con vào năm 1999.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, khi mức sinh của Việt Nam tiệm
cận mức sinh thay thế (2,1 ± 0,05 con mỗi phụ nữ), chính sách dân số được mở rộng
theo hướng toàn diện hơn, chuyển từ giảm tốc độ gia tăng dân số sang chủ động
kiểm soát quy mô dân số và từ kế hoạch hóa gia đình sang chăm sóc sức khỏe sinh
sản - kế hoạch hóa gia đình và nâng cao chất lượng dân số. Sau hơn 4 thập kỷ nỗ
lực giảm sinh, Việt Nam bắt đầu đạt mức sinh thay thế vào khoảng năm 2005 nhưng
chưa thật vững chắc và còn có khác biệt đáng kể giữa các vùng, miền (Hình 1).
Vì vậy, mục tiêu giảm sinh cùng với chính sách “từ 1 đến 2 con” vẫn được duy
trì trong gần thập kỷ tiếp theo và điều này được thể hiện trong Văn kiện Đại hội
lần thứ IX của Đảng năm 2001, Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng năm 2006
và trực tiếp trong nhiều văn bản, chính sách quan trọng khác của Đảng, Nhà nước
và Chính phủ, như Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, Chương
trình Mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình đến năm 2005, Nghị quyết
Ban Chấp hành Trung ương số 47-NQ/TW, ngày 22-3-2005 “Về tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình”, Quy định số
94-QĐ/TW, ngày 15-10-2007 “Về xử lý đảng viên vi phạm” của Bộ
Chính trị, Kết luận số 44-KL/TW, ngày 1-4-2009, của Bộ Chính trị “Về kết
quả 3 năm thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW, ngày 22-3-2005, của Bộ Chính
trị khóa IX “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch
hóa gia đình” và Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2008…
Mức sinh cao làm dân số tăng quá nhanh, nhưng mức
sinh thấp dưới mức thay thế sẽ dẫn đến thiếu hụt lực lượng lao động, già hóa
dân số quá sớm, gia tăng những vấn đề an sinh xã hội bất cập. Hệ lụy sẽ càng
nghiêm trọng đối với các nước đang phát triển, mới đạt mức thu nhập trung bình
thấp như Việt Nam. Hơn nữa, kinh nghiệm nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế
giới cho thấy, mức sinh khi đã giảm sâu dưới mức thay thế thì rất khó tăng trở
lại, ngay cả khi áp dụng những chính sách khuyến sinh rất tốn kém (2). Mức
sinh thay thế ở Việt Nam được duy trì khá lâu nhưng được coi là chưa “vững chắc”
bởi hầu hết các vùng đều có mức sinh cao hơn hoặc thấp hơn mức sinh thay thế và
không ổn định. Mức sinh ở khu vực nông thôn luôn cao hơn ở khu vực thành thị và
khoảng cách hiện nay là hơn 0,4 con. Riêng vùng đồng bằng sông Hồng có mức sinh
gần mức thay thế trong giai đoạn 2005 - 2013 nhưng đã tăng lên đáng kể trong mấy
năm gần đây. Trong khi đó, mức sinh ở vùng Đông Nam Bộ lại giảm sâu dưới mức
thay thế (Hình 1). Nếu xét theo tỉnh/thành, dân tộc và các nhóm xã hội thì sự
khác biệt còn lớn hơn. Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 1999 thì chỉ có 9
trong tổng số 63 tỉnh/thành trên cả nước có mức sinh trong khoảng từ 2,0 đến
2,2 (3).
Như vậy, việc duy trì mức sinh thay thế có vai trò rất
quan trọng đối với mục tiêu phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội đại biểu lần
thứ XI của Đảng năm 2011 đã thay đổi quan điểm từ giảm sinh sang duy trì mức
sinh hợp lý. Đến năm 2016, quan điểm duy trì mức sinh thay thế và nâng cao chất
lượng dân số đã được thể hiện rõ qua Kết luận số 119/KL-TW, ngày 4-1-2016, của
Ban Bí thư “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị
khóa IX về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa
gia đình”: “Duy trì mức sinh thay thế và điều tiết mức sinh hợp lý”. Tập
trung chỉ đạo để giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh còn cao; duy trì
kết quả đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp
vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”.
Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Hội nghị
Trung ương 6 khóa XII “Về công tác dân số trong tình hình mới” đánh
giá công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đạt được nhiều kết quả quan trọng,
góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế
sớm 10 năm so với mục tiêu đề ra, hạn chế tăng thêm hàng chục triệu người. Nghị
quyết số 21-NQ/TW cũng chỉ ra những thách thức, hạn chế chủ yếu trong công tác
dân số, trong đó có sự chênh lệnh đáng kể về mức sinh giữa các vùng, tình trạng
mức sinh giảm xuống quá thấp đã xuất hiện ở nhiều tỉnh/thành, mất cân bằng giới
tính khi sinh tăng nhanh lên mức nghiêm trọng. Khẳng định quan điểm dân số là yếu
tố quan trọng hàng đầu, công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược vừa cấp thiết, vừa
lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch
hóa gia đình sang dân số và phát triển, Đảng ta đã đưa ra mục tiêu duy trì vững
chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, miền, giảm mất
cân bằng giới tính khi sinh và quy mô dân số 104 triệu người vào năm 2030.
Từ chủ trương của Đảng, năm 2019, Chính phủ ban hành
Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 với 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp
nhằm đạt được mục tiêu tổng quát là “duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ
số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số
vàng; thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng
dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững”. Triển khai thực hiện Chiến
lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết
định số 588/QĐ-TTg, ngày 28-4-2020, phê duyệt “Chương trình điều chỉnh mức
sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030” với mục tiêu cụ thể là tăng
10% mức sinh ở tỉnh/thành có mức sinh thấp, giảm 10% mức sinh ở tỉnh/thành có mức
sinh cao và duy trì kết quả ở tỉnh/thành mức sinh thay thế. Sau hơn 4 thập kỷ nỗ
lực giảm sinh thành công về mức thay thế và khoảng hơn một thập kỷ “chuyển tiếp”,
Việt Nam đã chính thức triển khai chính sách cùng các giải pháp duy trì mức
sinh thay thế. Các nhiệm vụ giải pháp chủ yếu của Chương trình bao gồm: 1- Tăng
cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền; 2- Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động
thay đổi hành vi; 3- Điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích
sinh đủ 2 con; 4- Mở rộng tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa
gia đình và các dịch vụ có liên quan; 5- Các nhiệm vụ và giải pháp khác (đào tạo,
tập huấn, bồi dưỡng; nghiên cứu khoa học và hệ thống thông tin quản lý; hợp tác
quốc tế; kiểm tra, giám sát, đánh giá.
Bài viết rất hữu ích
Trả lờiXóa