Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, đã có không ít
quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, xuyên tạc, phủ nhận con đường cách
mạng mà Đảng và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn trong hơn 90 năm qua. Họ cho
rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đẩy nhân dân Việt Nam vào những cuộc chiến
tranh vô ích (?!); đưa dân tộc Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội không khác gì
đẩy dân tộc vào “thiên đường mù”, vào “bến bờ ảo vọng”(?!).
Trong bài Diễn văn kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (1930 - 2020), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Thực
tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ,
sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Thực tế cho thấy, từ khi thành lập đến nay, với đường lối đúng
đắn và bản lĩnh của một Đảng cách mạng chân chính, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo Nhân dân ta thực hiện thành công cách mạng giải phóng dân tộc và tiến
hành công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng đạt
được những kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Mặc dù vậy, cho đến nay, vẫn có những con người được sinh ra,
được hưởng thành quả của sự nghiệp cách mạng ấy đã phủ nhận, xuyên tạc đường
lối lãnh đạo của Đảng và phủ nhận thành quả cách mạng của Nhân dân ta. Họ cho
rằng, nếu không đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thì dân tộc Việt Nam đã
không chậm phát triển, không có tham nhũng…; rằng, nếu đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa đất nước sẽ phát triển nhanh, xã hội sẽ tiến bộ và công bằng…(?!).
Thực chất, những luận điệu ấy, hoặc là quan điểm sai trái, thù địch, phản động;
hoặc là không đủ khả năng nhận thức được xu thế tất yếu của lịch sử nhân loại.
Có thể khẳng định, từ khi lịch sử loài người xuất hiện giai cấp,
áp bức, bóc lột bất công, thì tình trạng chiến tranh, thủ đoạn cướp đoạt bằng
bạo lực, nô dịch cũng xuất hiện. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, tình trạng ấy
ngày càng trở nên gay gắt. Từ đó, những khát vọng, mong muốn được giải phóng
của những giai cấp bị áp bức, bóc lột cũng xuất hiện.
Nhiều thế hệ các nhà tư tưởng, các nhà cách mạng ưu tú đã cống hiến,
hy sinh cả cuộc đời cho lý tưởng tốt đẹp, nhân đạo, cho sự tiến bộ của nhân
loại. Từ những tư tưởng sơ khai của Aghit, Clêômen thế kỷ III trước Công nguyên
đến những mô hình, hệ thống quan điểm ngày càng hoàn chỉnh, tiến bộ hơn như
T.Moro, G.Babớp, Xanhximông. Ph.Phurie, R.Owen, N.Đôbzôliubốp. Tư tưởng xã hội
chủ nghĩa được khái quát thành hệ thống lý luận khoa học trong chủ nghĩa Mác.
Và đến V.I.Lênin, lý luận đó là tiền đề cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội hiện
thực.
Chủ nghĩa xã hội được hiểu với 3 tư cách: đó là một học thuyết,
một phong trào cách mạng và một chế độ xã hội. Học thuyết, phong trào, chế độ
ấy hướng đến sự giải phóng triệt để con người, chấm dứt bạo lực, cường quyền,
chiến tranh; để phát triển toàn diện con người, để sự tự do của mỗi người là
tiền đề cho sự tự do của tất cả mọi người.
Xuất phát từ nhận thức rằng, áp bức giai cấp là nguyên nhân căn
bản, sâu xa của áp bức dân tộc, thì các chế độ người áp bức, bóc lột người
trong lịch sử đều dẫn đến tình trạng dân tộc này đi áp bức, bóc lột dân tộc
khác. Tình trạng này xuất hiện là do giai cấp thống trị về kinh tế trong một
dân tộc luôn muốn củng cố địa vị kinh tế của mình thông qua bóc lột, đồng thời
mở rộng sự ảnh hưởng của mình thông qua áp bức, nô dịch các dân tộc khác. Sự đô
hộ của các nước đế quốc đối với các nước thuộc địa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, về thực chất là sự bành trướng, áp bức bóc lột của giai cấp tư sản khi nó
đã trở thành giai cấp lỗi thời về mặt lịch sử.
Mặt khác, ở mỗi dân tộc nhất định, tính chất tiến bộ cách mạng
hay bảo thủ, phản động của giai cấp giữ địa vị thống trị trong phương thức sản
xuất sẽ quyết định tính chất của dân tộc. Giai cấp cách mạng, tiến bộ sẽ thúc
đẩy sự phát triển của dân tộc theo hướng tiến bộ, cách mạng. Giai cấp lỗi thời,
bảo thủ, lạc hậu, phản động sẽ kìm hãm sự phát triển của chính dân tộc ấy.
Chẳng hạn, sự thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản nói lên tính chất
tư bản chủ nghĩa của dân tộc đó. Trong xã hội ấy không thể có tự do thực sự cho
tất cả mọi người. Khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo, xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, bất công thì dân tộc tư sản chuyển hóa thành dân tộc có
tính chất xã hội chủ nghĩa. Dân tộc ấy thực hiện “quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc” cho tất cả mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định, “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” và “cách
mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì
mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Hơn nữa, chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời sẽ tạo cơ sở kinh tế để
nhân dân được ăn no, mặc ấm. Theo Hồ Chí Minh, “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Chế độ chính trị của chủ nghĩa
xã hội sẽ đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Chế độ xã hội trong chủ
nghĩa xã hội sẽ đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ, bình đẳng và tiến bộ. Khi
nhân dân được thụ hưởng những lợi ích thực sự mà cách mạng đem lại, nhân dân
các nước xã hội chủ nghĩa sẽ ra sức bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ,
qua đó góp phần củng cố độc lập dân tộc bền lâu.
Thực tế là, từ năm 1945 đến nay, không chỉ có Việt Nam giành
được độc lập từ sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân, mà có nhiều nước từ Á, Phi đến
Mỹ La tinh cũng giành được độc lập. Nhưng khi đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa, nhiều nước vẫn chìm trong bạo lực, chiến tranh, mâu thuẫn sắc tộc, nghèo
đói. Các nước ấy bị chi phối, thao túng, và thực sự không có độc lập, tự do.
Đến nay, Việt Nam chưa phải là quốc gia phát triển, nhưng nếu
tính từ năm 1945 thì nền độc lập của dân tộc Việt Nam mới được 77 năm và nếu
tính từ năm 1975 thì dân tộc Việt Nam mới chấm dứt chiến tranh được 47 năm. Với
từng ấy thời gian cho việc xây dựng và kiến thiết đất nước thì còn quá ngắn so
với chế độ tư bản đã có hơn 500 năm kiến tạo. Tuy nhiên, điều căn bản là, ngày
nay, chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là chế độ mà ở đó con người được giải
phóng và phát triển thực sự; chế độ mà ở đó “Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ
là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát
tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ
yếu và do đó chi phối toàn xã hội”, do đó “Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng
không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến
dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất”.
Trong khi đó, với thành tựu của hơn 35 năm đổi mới đất nước, dân
tộc Việt Nam đã thực sự được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. “Nhờ thực
hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục
với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình
khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ
đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình
quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm
các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền
miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn
trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế
giới”.
Cách mạng là sự nghiệp khó khăn, lâu dài, gian khổ, vì cách mạng
là thay chế độ xã hội cũ bằng xã hội mới. Lịch sử cho thấy, chiếm hữu nô lệ chỉ
tan rã sau 400 năm từ khi xuất hiện mầm mống của chế độ phong kiến trong lòng
nó. Giai cấp tư sản lật đổ lật đổ chế độ phong kiến để xác lập địa vị thống trị
của mình phải mất gần 300 năm, bắt đầu từ cách mạng tư sản Hà Lan năm 1560, đến
tận khi vua Louis thứ XVI lên đoạn đầu đài ở Pháp vào thế kỷ thứ XVIII thì chủ
nghĩa phong kiến ở châu Âu về đại thể mới chấm dứt sự thống trị. Thậm chí, tàn
dư của chế độ phong kiến còn tồn tại cho đến ngày nay ở nhiều quốcgia. Tuy
nhiên, “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội”. Với ý nghĩa đó, “Chủ nghĩa cộng sản là hình thức tất yếu và
là nguyên tắc kiên quyết của tương lai sắp tới”.
Do vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản
và lâu dài của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho dân tộc ta đi đến tương lai phồn
vinh, hạnh phúc.
Quang Đặng - VNTV
bài viết rất thực tế
Trả lờiXóa