Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông
qua những văn kiện quan trọng, nhằm hoạch định đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Đường lối đó thể hiện sâu sắc tư duy mới của Đảng; trong
đó, phát huy tính chủ động về quốc phòng là một trong những điểm đột phá, cần
được quán triệt và triển khai thực hiện.
Chủ động chuẩn bị về quốc phòng là một tất yếu
khách quan, yêu cầu nội tại của mọi quốc gia, dân tộc, với tính cách là nhân tố
căn bản nhất để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh quốc gia trong mọi tình huống. Bởi vậy, nó luôn là vấn đề có
tính nguyên tắc, xuyên suốt trong hoạch định đường lối quốc phòng, bảo vệ đất
nước của từng quốc gia, nhất là đối với các quốc gia nhỏ. Đối với nước ta, trên
cơ sở đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, Văn kiện Đại hội
XII của Đảng chỉ rõ: “Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế
hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình
huống”. Đây là quan điểm cơ bản, thể hiện sự phát triển tư duy,
nhận thức lý luận của Đảng về chủ trương, phương thức cùng những giải pháp cơ
bản, cấp thiết, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc - một trong
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh thế giới, khu vực
có những thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường.
Xét về lịch sử, quan điểm trên không phải bây
giờ mới có, càng không phải chỉ xuất hiện trong các cuộc kháng chiến vừa qua,
mà tồn tại trong suốt quá trình dựng và giữ nước của dân tộc. Ngay từ xa xưa,
do thường xuyên phải đối phó với các thế lực xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân
sự hơn hẳn, ông cha ta luôn chủ động chuẩn bị đất nước về mọi mặt theo tư
tưởng: “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Vì thế, tích cực, chủ động chuẩn bị về
quốc phòng đã thấm sâu và là quan điểm xuyên suốt của Đảng và dân tộc. Nói như
vậy không có nghĩa quan điểm mà Đại hội XII của Đảng đề cập không có gì mới;
trái lại rất mới và sáng tạo. Điểm mới đó được thể hiện ở chỗ, Đảng ta đã kế
thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng giữ nước truyền thống của dân tộc,
của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ vào điều kiện cụ thể của đất nước một
cách nhuần nhuyễn, phù hợp. Theo đó, lần đầu tiên, vấn đề chuẩn bị lực lượng,
kế hoạch, phương án,… về quốc phòng được xác định rõ trong văn kiện một kỳ đại
hội Đảng. Điều đó cho thấy sự phức tạp và đòi hỏi cấp thiết của nhiệm vụ quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đồng thời, thể hiện tư duy nhạy bén
và tầm nhìn chiến lược của Đảng, nhằm sẵn sàng ứng phó với những biến đổi mau
lẹ, phức tạp, khó lường của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế. Hơn thế
nữa, quan điểm của Đảng không những chỉ rõ phương hướng, sự cần thiết phải tăng
cường chuẩn bị, tạo sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống,
mà còn hướng tới mục tiêu cao hơn là ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột và
chiến tranh. Vì thế, quan điểm trên không chỉ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam, mà còn có giá trị lý luận, thực tiễn và nhân văn
sâu sắc.
Quán triệt quan điểm của Đảng, những năm qua,
cùng với công tác chuẩn bị các mặt, chúng ta đã thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn
thiện các quyết tâm, kế hoạch tác chiến và tổ chức luyện tập phương án xử lý
các tình huống. Trong đó, đã tập trung hoàn thành các kế hoạch, phương án bảo
vệ chủ quyền biên giới, hải đảo và Kế hoạch tác chiến chiến lược trên các địa
bàn, v.v. Đồng thời, tăng cường xây dựng lực lượng quốc phòng, nhất là chủ động
nghiên cứu, điều chỉnh lực lượng Quân đội nhân dân theo hướng: tinh, gọn, mạnh,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cả thường xuyên và đột xuất, thực sự là lực lượng
nòng cốt trong bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và
phát triển đất nước.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác nắm, dự
báo, đánh giá tình hình có việc, có nơi chưa chắc; việc điều chỉnh, bổ sung các
phương án có thời điểm chưa kịp thời; sức cơ động của bộ đội chưa cao; công tác
tổ chức, biên chế lực lượng chưa ổn định; năng lực quản lý, điều hành huấn
luyện, diễn tập, nhất là huấn luyện đêm, có mặt còn hạn chế, v.v. Những vấn đề
nêu trên, nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Vì thế, quan điểm
phát huy tính tích cực, chủ động về quốc phòng phải được quán triệt, thực hiện
nghiêm túc ở tất cả các cấp, ngành và toàn dân; trong đó, tập trung vào nội
dung chủ yếu sau:
Một là, chủ động chuẩn bị các kế
hoạch, phương án tác chiến và đấu tranh, không để bị động, bất ngờ trong mọi
tình huống. Đây là nội dung cơ bản, quyết định nhất trong chuẩn bị về quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc, bởi nó là hiện thân của phương hướng hành động, cách
thức tiến hành; đồng thời, thể hiện ý chí, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, nhân
dân và lực lượng vũ trang trong xử lý các tình huống có thể xảy ra. Để các kế
hoạch, phương án đó thực sự chặt chẽ, khoa học, có tính khả thi cao, việc chuẩn
bị nhất thiết phải dựa trên cơ sở đánh giá, kết luận đúng tình hình các mặt,
nhất là các đánh giá, dự báo chính xác về đối tượng tác chiến, đấu tranh cũng
như các yếu tố mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở đó, xác định các
chủ trương, giải pháp chiến lược hợp lý, làm căn cứ để triển khai chuẩn bị.
Quá trình thực hiện, cần tận dụng triệt để các
kế hoạch, phương án đã dự kiến từ trước để điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh cho
phù hợp với tình hình mới. Trong đó, cần chú trọng kế thừa, vận dụng các quan
điểm, tư tưởng quân sự và truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam vào điều
kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, tránh tư tưởng rập khuôn, máy
móc kinh nghiệm chiến đấu của các cuộc chiến tranh giải phóng trước đây.
Trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung dự
kiến và chuẩn bị các kế hoạch, phương án đấu tranh trong các tình huống tranh
chấp biển, đảo với các bên liên quan và từ trong nội bộ. Coi trọng đi sâu
nghiên cứu, dự kiến các tình huống đột biến có thể xảy ra trên các địa bàn, cả
trong nội địa, trên biên giới, hải đảo và các biện pháp đối phó. Các kế hoạch,
phương án cần được chuẩn bị cụ thể, có cơ sở khoa học, sát thực tế và có tính
khả thi cao. Trong từng phương án, phải làm rõ mục tiêu cần đạt được; tư tưởng
chỉ đạo; phương thức tiến hành; lực lượng, phương tiện huy động; các hướng, khu
vực, địa bàn trọng điểm; tổ chức chỉ huy hiệp đồng và bảo đảm cùng các biện
pháp tác chiến và đấu tranh.
Hai là, chủ động chuẩn bị về lực
lượng, phương tiện và thế trận ngay từ thời bình. Đây thực chất là sự chuẩn
bị về thực lực quốc phòng, nhằm tạo nguồn sức mạnh trong thực hiện các kế
hoạch, phương án tác chiến, đấu tranh đã được phê duyệt. Vì thế, việc chuẩn bị
phải bảo đảm tính toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm và coi trọng nâng
cao chất lượng các mặt. Về chuẩn bị lực lượng, yêu cầu đặt ra là phải kết hợp
đồng bộ cả lực lượng rộng rãi và chuyên trách; giữa lực lượng tại chỗ và lực
lượng cơ động, giữa lực lượng trong các khu vực phòng thủ địa phương và lực
lượng của các bộ, ngành trên địa bàn. Trước mắt, căn cứ vào tình hình và yêu
cầu mới đặt ra, cần quan tâm xây dựng các lực lượng chuyên trách mới, như: lực
lượng quản lý, bảo vệ biên giới; thực thi pháp luật trên biển (Cảnh sát biển,
Kiểm ngư,…); đồng thời, không coi nhẹ chuẩn bị lực lượng toàn dân, nhất là ở
khu vực biên giới và trên các vùng biển, đảo, v.v. Đây là lực lượng rất quan
trọng, bảo đảm nhanh, kịp thời, hiệu quả nhất, trực tiếp đấu tranh bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ của Tổ quốc.
Bên cạnh đó, cần chủ động xây dựng, ban hành
các cơ chế, chính sách huy động phương tiện của tổ chức, cá nhân và của nền
kinh tế quốc dân phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng. Trong đó, cần xác định rõ
phương tiện có thể huy động, trưng thu, trưng mua và phải có kế hoạch rõ ràng,
hợp lý, không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế - xã hội. Ngoài ra,
cần chú trọng chuẩn bị các phương tiện chuyên dùng phục vụ các lực lượng chuyên
trách khi thực hiện đấu tranh ngoài thực địa, đặc biệt là đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển, đảo trong mọi tình huống.
Trên cơ sở chuẩn bị lực lượng, cần triển khai,
bố trí, hình thành thế trận có lợi cho từng kế hoạch, phương án tác chiến, đấu
tranh, bảo đảm vừa có thể tập trung lực lượng cho nhiệm vụ chủ yếu, vừa chuyển
hóa linh hoạt trên các địa bàn. Coi trọng bố trí lực lượng, xây dựng thế trận
đấu tranh ở các địa bàn chiến lược, nơi dự kiến xảy ra “điểm nóng”, như: biểu
tình, bạo loạn chính trị, vũ trang. Riêng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, cần kết hợp chặt chẽ thế trận liên hoàn, vững chắc giữa bờ - biển -
đảo, thế trận quốc phòng - an ninh - đối ngoại, trong nước và quốc tế.
Ba là, chủ động đấu tranh ngăn ngừa
các nguy cơ xung đột và chiến tranh, tạo động lực cho công tác chuẩn bị về quốc
phòng. Theo đó, việc chủ động chuẩn bị về quốc phòng phải luôn gắn liền với
các hoạt động đấu tranh. Thực tiễn cho thấy, chỉ thông qua thực tế đấu tranh,
chúng ta mới chuẩn bị một cách trúng, đúng, kịp thời và hiệu quả nhất về các
mặt cho nhiệm vụ quốc phòng. Vừa qua, chúng ta kiên trì quan điểm giải quyết
các tranh chấp, bất đồng bằng giải pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật
pháp quốc tế, nhưng không vì thế mà lơ là, coi nhẹ các hoạt động đấu tranh;
trái lại, cần phải đấu tranh kiên quyết, triệt để hơn trên tất cả các lĩnh vực,
với nhiều hình thức, biện pháp. Trong tình hình hiện nay, cùng với đấu tranh có
hiệu quả chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, ngăn
chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ nội bộ, chúng ta cần chủ động
đấu tranh có hiệu quả với nước ngoài trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở Biển
Đông. Qua đó, rút ra những vấn đề khiếm khuyết để bổ sung kịp thời; có kế hoạch
triệt tiêu các mầm mống gây mất ổn định bên trong, không để bùng phát, lan
rộng, kéo dài.
Trong đấu tranh, dù ở thời điểm và tình huống
nào cũng phải huy động, kết hợp nhiều lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp;
trong đó, lực lượng vũ trang là nòng cốt, nhưng không coi nhẹ lực lượng của
toàn dân, lực lượng các bộ, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
Phải kết hợp chặt chẽ nhiều hình thức đấu tranh, như: đấu tranh quốc phòng, an
ninh, kinh tế, chính trị, ngoại giao, v.v. Đặc biệt hiện nay, đấu tranh ngoại
giao có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, hoạt
động đối ngoại cần đi vào chiều sâu, thực chất, nhất là đối với các nước láng
giềng, khu vực, bạn bè truyền thống và các nước lớn, góp phần nâng cao tính chủ
động về quốc phòng, thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, vững chắc.
Nguồn: http://tapchiqptd.vn/
Nguồn: http://tapchiqptd.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét