Trước
thềm Đại hội Đảng lần thứ XII, lợi dụng sự kiện này một số người đã cổ súy cho
việc thực hiện cái gọi là “Tam quyền phân lập”, đòi tách biệt quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp để “kiềm chế”, “đối trọng” giữa ba quyền này theo mô hình
nhà nước tư sản... Đây là những luận điệu không mới và đã được các thế lực thù
địch, phản động ra sức tuyên truyền, kích động nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, nhận thức thực chất của thuyết
“Tam quyền phận lập” và đấu tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng học thuyết này
chống phá nước ta là vấn đề cấp bách hiện nay.
Tam quyền phân lập là
không phù hợp với thực tiễn chính trị ở Việt Nam
Lịch
sử lập hiến Việt Nam cho thấy, qua 5 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992,
2013) nhân dân Việt Nam không chỉ tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kế thừa
những thành tựu của lịch sử lập hiến thế giới mà còn vận dụng phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Trên thực tế, đây không phải là lần đầu tiên có những ý kiến đề
nghị: “Cần thực hiện tam quyền phân lập trong tổ chức quyền lực nhà nước”. Trên
thực tế, ở Việt Nam không theo mô hình nhà nước tư sản, nhưng Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta vẫn luôn kiên định quan điểm về việc tổ chức quyền lực nhà nước
theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Điều này xuất phát từ những lý do sau:
Thứ
nhất, tư duy cơ giới - nền tảng của thuyết tam quyền phân lập không phù hợp với
truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc Việt Nam.
Suốt
chiều dài dựng nước và giữ nước, lịch sử đã chứng minh: Việt nam là dân tộc
luôn đoàn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Cách đây 726 năm (năm
1288) dân tộc ta dã đoàn kết một lòng “sát thát”, đánh tan quân Nguyên-Mông, chấm
dứt thời kỳ đô hộ của quân xâm lược phương Bắc. Sau này, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã giương cao ngọn cờ đoàn kết
dân tộc, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, các lực lượng cách mạng, cả
dân tộc đã dồn sức cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ “lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu”, một lần nữa chứng minh cho tinh thần đoàn kết một lòng làm nên sức
mạnh của dân tộc ta. Khi đất nước tiến hành đổi mới, các thế lực thù địch, phản
động luôn tìm mọi cách hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo hòng phá hoại khối đại đoàn kết, kích động, chống đối, nhằm
gây mất ổn định chính trị- xã hội, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của
ta, nhưng Đảng và Nhà nước ta tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của
các thế lực thù địch, giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc gia.
Có
thể nói, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, thống nhất vì mục tiêu chung đã trở
thành giá trị văn hóa, ăn sâu trong tiềm thức và lối sống của dân tộc ta. Chính
vì lẽ đó, phương pháp tư duy cơ giới- nhìn nhận mọi việc theo hướng tách biệt,
không có mối liên hệ với nhau, “kiềm chế- đối trọng tuyệt đối” của thuyết tam
quyền phân lập đã không phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý của dân tộc
ta, không được dân tộc ta chấp nhận.
Thứ
hai, khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp” là phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam.
Kế
thừa những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, Đảng ta đã khẳng định nhất
quán quan điểm: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó tiếp tục khẳng định
“Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do nhân dân và vì nhân dân”;
tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng: “Quyền
lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Có thể nói,
nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn
gốc và bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân”. Theo đó, nhân dân thông qua lập hiến mà trao quyền lực nhà nước của
mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, cần phải nhận
thức rõ rằng nhân dân không trao hết quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội,
Chính phủ và cơ quan tư pháp. Theo điều 84 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 và điều 69 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013, nhân dân chỉ giao cho Quốc hội 3 nhóm quyền hạn và nhiệm vụ
về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và
nghĩa vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Thực
tiễn ở nước ta chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp
hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là ở nhân dân, đều do nhân
dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhât trước
tiên, là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng
một nhà nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh” như Đảng ta đã chỉ ra. Bên cạnh đó, quan điểm quyền lực nhà nước là thống
nhất nói trên còn là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm
trước nhân dân, hạn chế sự dự dẫm, ỷ lai
trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là
cơ sở để không chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối
quan hệ giữa các quyền, nhất là quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời,
đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng
và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước
cũng như từ bên ngoài là nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực
nhà nước nên tất yếu nhân dân phải phân công và kiểm soát quyền lực đó. Do đó,
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta (sửa đôi, bổ sung
năm 2011) và điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ hơn sự “phân công” và xác
định kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc trong tổ chức quyền lực ở
nước ta.
Như
vậy, mặc dù nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập trong tổ chức
bộ máy nhà nước nhưng Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013)
đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập”, bằng việc quy định rõ các cơ
quan nhà nước thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên thực tế. Sự
phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên
nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực
hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.
Thực
tiễn đã cho thấy, chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch,
rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều
kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành
các quy định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước
mới có hiệu quả. Ngoài ra, nhằm nâng cao
tính hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc
quy định rõ sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013)
còn khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Và theo
đó, đã quy định một chương riêng về các thiết chế hiến định độc lập, bao gồm ba
cơ quan: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc
ghi nhận các thiết chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm
chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm
soát nhà nước hiện nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét