Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016

VAI TRÒ CỦA ASEAN TRONG DUY TRÌ HÒA BÌNH VÀ AN NINH KHU VỰC

Hợp tác chính trị - an ninh được đánh giá là mặt hợp tác thành công hơn cả của ASEAN trong những thập kỷ qua. Và chính ở lĩnh vực này, vai trò của tổ chức đối với các nước thành viên được thể hiện rõ rệt nhất. Điều được thừa nhận rộng rãi về vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên trong 40 năm qua là việc xử lý ổn thỏa các mối bất đồng, tranh chấp giữa các nước thành viên, không để dẫn đến xung đột, tạo điều kiện xây dựng một môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác giữa các nước thành viên để từ đó giúp họ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, và xây dựng một khu vực Đông Nam Á thống nhất, vững mạnh trước các sức ép từ bên ngoài.
Xuất phát từ vị trí địa chính trị, địa chiến lược nên trước chiến tranh thế giới thứ 2 hầu hết các quốc gia Đông Nam Á (trừ Thái Lan) đều trải qua những thăng trầm lịch sử khác nhau, nhất là trong cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc. Chính vì vậy, mong muốn tạo lập môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển luôn là nguyện vọng thiết tha của nhân dân các nước ĐNA nói chung và của mỗi quốc gia thành viên nói riêng.
Trước yêu cầu của lịch sử, các nước trong khu vực đã tìm ra được tiếng nói chung thông qua việc thành lập Hiệp hội các quốc gia ĐNA (8.8.1967) trên cơ sở Tuyên bố Băng Cốc, với 5 nước thành viên ban đầu là Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Xingapo và Thái Lan; xây dựng các nguyên tắc, đưa ra các tuyên bố, cam kết thực hiện hướng tới mục tiêu vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực. Sau hơn 20 năm tồn tại, phát triển, tháng 10/1991 các nước trong khu vực đã ký kết“Hiệp định Pari - 1991”- Hiệp định hoà bình ở Campuchia, xóa bỏ mọi hiềm khích, quan ngại, nghi ngờ lẫn nhau giữa hai thái cực trong cùng một khu vưc, tạo ra một không gian địa - chính trị mới, đầy hứa hẹn về sự hợp tác vì hoà bình và phát triển. Tháng 12/1995 tại Băng Cốc đã diễn ra cuộc họp lịch sử đầu tiên của người đứng đầu Chính phủ 10 nước Đông Nam Á, chấm dứt thời kỳ Đông Nam Á bị phân chia thành hai nhóm đối lập nhau, thay vào đó là sự hoà hợp khu vực thống nhất, củng cố sự tin cậy lẫn nhau, đẩy mạnh quá trình tiến tới một ASEAN bao gồm 10 nước Đông Nam Á (ASEAN-10) và mở ra những khả năng mới cho hoà bình, ổn định, hợp tác chính trị và kinh tế ở khu vực. ASEAN đã đưa ra Tuyên bố về khu vực hoà bình, tự do và trung lập thông qua Hiệp ước (ZOPFAN) năm 1971; “Tuyên bố hoà hợp ASEAN – II” năm 2003, thể hiện rõ cố gắng của các nước ASEAN tranh thủ điều kiện hoà bình, để  phát triển và mong muốn không có sự can thiệp từ bên ngoài dưới bất cứ hình thức nào. Bên cạnh đó ASEAN luôn tuân thủ nguyên tắc chỉ đạo quan hệ quốc tế thông qua Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (gọi tắt là Hiệp ước Bali). Đặc biệt, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 13 (Cêbu – Philippin) tháng 11/2007, lãnh đạo mười nước trong khối ASEAN đã thống nhất thông qua Hiến chương ASEAN và cam kết thực hiện.
Tiếp đó, ASEAN đã tích cực triển khai Kế hoạch tổng thể về xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh (APSC) trên tất cả các mặt, nhất là trên 14 lĩnh vực ưu tiên đã được xác định, cũng như các chương trình, kế hoạch công tác có liên quan khác (như ứng phó thiên tai, an ninh biển, chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia…). ASEAN đã tích cực thúc đẩy đối thoại và hợp tác tại các diễn đàn ở khu vực như ASEAN+1, ASEAN+3, ARF, ADMM+ và Cấp cao Đông Á (EAS) nhằm tăng cường xây dựng lòng tin, hợp tác vì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực, cũng như ứng phó hiệu quả với các thách thức đang đặt ra. ASEAN cũng tiếp tục củng cố và phát huy mạnh mẽ vai trò và giá trị của các thỏa thuận, cơ chế và công cụ hợp tác vì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á phi Vũ khí hạt nhân (SEANWFZ)
Gần đây, trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, thông qua các Hội nghị Cấp cao ASEAN-24 (năm 2014) và Cấp cao ASEAN-25, 26 (năm 2015) các nhà lãnh đạo ASEAN cho rằng hành động của Trung Quốc là nguy hiểm, vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982), vi phạm Tuyên bố về ứng xử giữa các bên liên quan ở Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một bên ký kết, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, an toàn hàng hải trên Biển Đông cũng như hòa bình, ổn định của khu vực, yêu cầu các bên liên quan kiềm chế, không sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình tranh chấp, tuân thủ luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982, thực hiện đầy đủ DOC và sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (COC). Đây là bước chuyển biến, thể hiện sự đoàn kết và vai trò chủ động, trách nhiệm của ASEAN đối với hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông.
Đặc biệt, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 28, 29 diễn ra tại thủ đô Viêng Chăn – Lào, các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã ra một tuyên bố chung nhất trí áp dụng bộ quy tắc về tránh va chạm bất ngờ trên biển và thông qua tài liệu hướng dẫn về đường dây nóng giữa các quan chức cao cấp của các Bộ Ngoại giao về ứng phó với các sự cố khẩn cấp trên biển. Đây là những động thái mang tính tích cực, góp phần quan trọng vào giảm rủi ro, giảm va chạm trên biển, tạo bước tiến mới trong quan hệ ASEAN – Trung Quốc, góp phần vào duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực. Cũng tại Hội nghị này các nhà lãnh đạo ASEAN cũng đã đưa ra được một cái tuyên bố chung khá cứng rắn bày tỏ sự lo ngại về những hành động làm gia tăng căng thẳng như những hành động cải tạo, xây dựng trái phép trên các đảo và các đá trên biển Đông.
Như vậy, các nước thành viên ASEAN đã đạt được sự nhất trí cao trong nhiều vấn đề khu vực và quốc tế, tạo thành một thế mạnh của tổ chức trong quan hệ với các nước và khu vực khác. ASEAN đã được đánh giá là tổ chức hợp tác khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển và trở thành một diễn viên ngày càng được biết đến trên sân khấu khu vực và quốc tế. Tư cách thành viên của một tổ chức khu vực thành công, đại diện cho Đông Nam Á đã làm tăng thêm vị trí và thế mạnh mặc cả của các nước ASEAN trong quan hệ với các nước khác. 
Tuy nhiên, trước sức ép ly tâm chiến lược của các nước lớn, sắc thái chính trị khác nhau, nhận thức về lợi ích quốc gia – dân tộc cũng khác nhau nên ASEAN cũng đang đứng trước những thách thức không nhỏ trong việc duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực. Chẳng hạn như tại Hội nghị Cấp cao Asean lần thứ 28, 29. Khi kết thúc hội nghị các nhà lãnh đạo Asean đã ra được một bản tuyên bố chung rất dài và nói đầy đủ với hầu hết tất cả trừ hai điểm 1) không nhắc đến bất kỳ tên của một quốc gia nào cả, 2) không nhắc đến phán quyết của tòa vụ Philippin kiện Trung Quốc. Bản tuyên bố cũng nhấn rất mạnh về công ước về luật biển và luật pháp quốc tế, điểm đáng chú ý ở đâylà họ chỉ ghi nhận "một số lãnh đạo cấp cao bày tỏ lo ngại". Diễn đạt như vậy rất dễ dẫn đến hiểu lầm bởi trên thực tế tại các hội nghị Asean vấn đề biển Đông thực sự là mối quan ngại của tất cả các nước, nhưng ghi là một vài nước rất dễ dẫn đến hiểu lầm.
Vấn đề biển Đông không chỉ là thách thức an ninh lớn nhất trong khu vực Asean. Đây còn là những phép thử lớn đối với sức mạnh, sự đoàn kết của ASEAN; giới quan sát cho rằng đối với ASEAN làm thế nào để tận dụng được sự đồng thuận của khối để giảm thiểu các bất lợi trong khu vực. Chính thủ tướng Lý Hiển Long trong bài diễn văn nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày quốc khánh Xingapo đã nhấn mạnh rằng: Nếu Asean không thể giải quyết được một vấn đề lớn ngay trước cửa nhà ảnh hưởng trực tiếp đến các thành viên của mình, thì về lâu dài sẽ không ai xem trọng Asean.
Ngược lại, việc ASEAN tham gia giải quyết mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở khu vực sẽ đạt được ba mục đích:
1) Góp phần hiện thực hóa Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC).
2) Hạn chế khả năng ASEAN và các quốc gia thành viên rơi vào vòng xoáy cạnh trạnh địa - chính trị của các nước lớn; duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực mới đang hình thành.
3) Góp phần giảm thiểu thế độc quyền chiến lược của một số nước lớn, làm tăng phần hợp tác, chia sẻ lợi ích giữa các nước lớn cũng như giữa các nước lớn với các nước ASEAN. 
Kết quả đó sẽ góp phần củng cố môi trường hợp tác và an ninh khu vực, trong đó chủ quyền quốc gia dân tộc của các thành viên ASEAN sẽ được tôn trọng. Đây cũng chính là trách nhiệm và lợi ích chiến lược của tổ chức này.
Lời giải phụ thuộc vào nhận thức, sự đồng thuận, nỗ lực cố gắng chung của cả Cộng đồng cũng như mỗi thành viên Asean và rõ ràng trong bối cảnh hiện nay, ASEAN cần chủ động đưa ra các sáng kiến mới, tạo dựng các cơ chế, hình thức hợp tác hòa bình mới. Hơn lúc nào hết, ASEAN cần một quyết tâm và trách nhiệm chính trị cao hơn trong giải quyết các vấn đề an ninh khu vực. Riêng đối với vấn đề Biển Đông bên cạnh việc cần sớm cùng Trung Quốc đàm phán, ký kết về COC, ASEAN cần kiên trì đấu tranh tìm các giải pháp giải quyết tranh chấp. Trong đó:
i) ASEAN cần thống nhất, đoàn kết hơn nữa trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, tránh ngón đòn chia để trị của Trung Quốc. Đồng thời cần nghiên cứu áp dụng bổ sung cơ chế đảm bảo thống nhất, phát huy trách nhiệm và kế thừa liên tục chính sách chung của ASEAN qua các nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN.
ii) Không né tránh giải quyết tranh chấp bằng luật pháp quốc tế. Trung Quốc luôn né tránh việc giải quyết vấn đề bằng luật pháp quốc tế, vì nước này muốn giữ thể diện, chủ trương giải quyết tranh chấp Biển Đông theo con đường song phương, loại trừ việc tham gia của bất kỳ bên thứ ba nào khác. Chính vì vậy, Trung Quốc né tránh dùng các cơ chế tài phán quốc tế, điều này chứng tỏ Trung Quốc yếu thế về cơ sở pháp lý trong các yêu sách chủ quyền phi lý của họ trên Biển Đông. ASEAN cần triệt để khai thác điểm yếu này của Trung Quốc.
iii) Chủ động tạo dựng cơ chế đàm phán đa phương. Sau những sự kiện liên tiếp từ tháng 5.2014 đến nay, lòng tin vào những cam kết của Trung Quốc đã suy giảm nghiêm trọng, vì vậy ASEAN cần tiếp tục kiên trì, kiên quyết đòi đàm phán đa phương với Trung Quốc để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên biển. Nhưng trước khi đàm phán đa phương với Trung Quốc, các nước ASEAN đòi chủ quyền ở Biển Đông cần tiến hành đàm phán đa phương với nhau nhằm giải quyết tất cả các tranh chấp về các vùng biển, cần xác định rõ phạm vi chủ quyền và quy chế pháp lý đối với các vùng biển, thềm lục địa và các đảo ở quần đảo Trường Sa để xác định phạm vi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi nước trên cơ sở UNCLOS 1982, cũng như thống nhất phương án đàm phán với Trung Quốc. 
Chắc chắn Trung Quốc sẽ coi đàm phán đa phương nội bộ các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ờ Biển Đông là cái gai và có thể gây thêm căng thẳng, phức tạp, thậm chí chiếm một số đảo, bãi chìm, làm đảo nhân tạo... nhưng thành công của đàm phán đa phương giữa các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền sẽ là minh chứng cho một cuộc đàm phán đa phương không có Trung Quốc tham gia mà vẫn giải quyết được các tranh chấp. Qua đây, các nước ASEAN sẽ có vị thế tốt hơn, làm cơ sở để thiết lập các điều khoản cho đàm phán tập thể sau này với Trung Quốc, cũng như kéo Trung Quốc vào đàm phán đa phương sau đó. Bên cạnh các hoạt động mang tính nội khối, ASEAN cần mở rộng hợp tác với các nước đối tác, các nước ngoài khu vực để từng bước giải quyết tranh chấp chủ quyền.
iiii) Xây dựng thỏa thuận đảm bảo tự do, an ninh hàng hải, hàng không trên biển Đông. Việc đảm bảo tự do, an toàn, an ninh hàng hải, hàng không là nhu cầu của tất cả các nước có lợi ích ở Biển Đông. ASEAN cần chọn chủ đề tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông là khâu đột phá. Nên có thể mời các quốc gia liên quan đến an toàn hàng hải, hàng không ở khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôxtrâylia tham gia đàm phán đa phương, xây dựng, ký kết một Thỏa thuận (hoặc Hiệp định) về đảm bảo an ninh hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Điều đó sẽ tạo tiền lệ quan trọng, làm cho Trung Quốc không thể đứng ngoài lề các cuộc đàm phán cũng như không thể không tham gia điều ước quốc tế này nếu Trung Quốc nghiêm túc mong muốn giải quyết các tranh chấp. Như vậy, bằng cách đó, ASEAN và các nước trong khu vực có thể tạo tiền đề, xác lập các điều khoản cho cuộc đàm phán đa phương tương lai với Trung Quốc.
Ngoài ra, cần tận dụng các diễn đàn khu vực, quốc tế quan trọng khác. Ví dụ, thông qua diễn đàn An ninh khu vực (ARF), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), ADMM+, Đối thoại Shangri-La, Hội nghị G7. Nhiều tiếng nói ủng hộ giải quyết tranh chấp hòa bình và tự do hàng hải tại Biển Đông.
Nếu tình hình tiếp tục căng thẳng hoặc có những phát sinh phức tạp mới, ASEAN nên sẵn sàng đề nghị Tổng Thư ký Liên hợp quốc đưa ra thảo luận vấn đề này tại phiên họp Đại hội đồng Liên hợp quốc, để làm sáng tỏ chính nghĩa của mình, cũng như để cả thế giới thấy được hành vi vi phạm luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc của nước lớn.
Nói tóm lại, sau 40 năm tồn tại và phát triển với nhiều thăng trầm, ASEAN đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực liên Chính phủ bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á, đã và đang tiếp tục phát huy vai trò trung tâm và sự ảnh hưởng ở khu vực và thế giới. Việc Cộng đồng ASEAN được thành lập ngày 31/12/2015, đã mở ra cho các quốc gia trong khu vực một trang sử mới với nhiều cơ thời cơ, vận hội mới cả về địa kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa xã hội của khu vực. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, sự gia tăng ảnh hưởng của các nước lớn và vấn đề lợi ích quốc gia của các nước thành viên … là những thách thức không nhỏ đối với ASEAN trong duy trì hòa bình, ổn định khu vực. Do đó, Cộng đồng ASEAN cần phải được xây dựng một cách thống nhất, đồng bộ chiến lược và quyết sách phát triển. Đặc biệt, trên phương diện Chính trị - An ninh đòi hỏi ASEAN phải có những tính toán khoa học, chặt chẽ và có được sự đồng thuận giữa các quốc gia trong Cộng đồng. Sự đóng góp một cách tích cực, chủ động của từng thành viên sẽ mang lại hiệu quả vì một khu vực ổn định, hòa bình, thịnh vượng và phát triển./.



2 nhận xét: