Liệu giai cấp vô sản ở thể kỷ XXI có còn đại diện cho tư
tưởng xã hội chủ nghĩa và còn là chủ thể trong việc hiện thực hoá chủ nghĩa xã
hội như trước đay nữa hay không? Luận giải về tính khách quan
của XHCN trong bối cảnh của CNXH ở cuối thế kỷ XX thoái lui trên diện rộng – là
công việc đặc biệt khó khăn và đầy trách nhiệm. Dựa vào qui luật kinh tế của xã
hội đương thưòi, K. Marx đã kết luận về tính tất yếu của sự chuyển hoá xã hội
TBCN lên xã hội XHCN. Kết luận này vẫn còn là một thực tế khoa học cho tới tận
ngày nay.
Trong
nền sản xuất công nghiệp, với sự bá chủ của công nghiệp dựa vào kỹ thuật cơ khí
là chính, giai cấp vô sản (đặc biệt là những công nhân lao động chân tay) luôn
chiếm vị trí hàng đầu. Pháp triển công nghiệp không chỉ có nghĩa là gia tăng
sản phẩm và số lượng công nhân, mà còn kéo theo sự tập trung hoá nhanh chóng
máy móc và những công nhân phục vụ máy móc đó. Quyền lợi của người công nhân và
sự tập trung hoá công nhân trong nền sản xuất công nghiệp đã làm cho giai cấp
vô sản trở thành động lực trí truệ và là người thực hiện cuộc đấu tranh vì
CNXH. Chính trong giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật công nghiệp của
lực lượng sản xuất, giai cấp vô sản đã thực hiện bước đột phá mang tính chất
XHCN trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản trên thế giới. Ở giai đoạn này đã
diễn ra ba đợt khủng hoảng chung của CNTB, nhưng khi đó, CNXH đã không đủ khả
năng chiến thắng CNTB trên qui mô toàn thế giới.
Trên thực tế,
những bứt phá mạnh mẽ nhất trong chuỗi mắt xích của CNTB lại được thực hiện tại
những nước tiền công nghiệp hoặc mới ở giai đoạn đầu công nghiệp. Chính quyền
lực của công nghiệp đã làm cho những nước xây dựng CNXH không đủ sức vượt qua
thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Cho tới cuối nhứng năm 1980, Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN Đông Âu chưa ra khỏi giai đoạn chuyển tiếp giữa 2 hình
thái xã hội nói trên. Ở những nước này mới chỉ có xã hội tiền XHCN. Cũng trong
những năm 80 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản ở các nước tư bản phát triển đã
suy yếu căn bản, biểu hiện ở qui mô và tính gay gắt của các phong trào bãi công
giảm sút; đại diện của các Đảng Cộng sản trong nghị viện ở các nước Tây Âu giảm;
hiện tượng khủng hoảng của các Đảng Cộng sản đã có ảnh hưởng nghiêm trọng không
chỉ đối với các tiến trình trong nước, mà cả quốc tế.
Thực trạng đó là kết quả của hai tác
nhân mới có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới.
Một là, các nước tư bản phát triển ở một chừng mực nào đó đã đưa
được tính đối kháng của quan hệ bóc lột ra ngoài biên giới của chúng, chuyển nó
thành, mâu thuẫn Bắc – Nam. Sự chênh lệch về trình độ của lực lượng sản xuất đã
cho phép tư bản xuyên quốc gia không chỉ
thiết lập ách thống trị về mặt kinh tế, chính trị và tinh thần theo kiểu chủ
nghĩa thực dân mới đối với phía Nam, mà về căn bản còn tư sản hoá được giai cấp
vô sản đất nước mình, biến họ thành những người cùng tham gia bóc lột đối với
các vùng kém phát trtiển về kinh tế. Sự thất bại tạm thời của CNXH ở Liên Xô
một lần nữa làm cho sự bóc lột những người công nhân làm thuê ở các nước kinh
tế phát triển Tây Âu tăng thêm. Dường như một mô hình mới của sự phát triển
TBCN đã hình thành. Phân tích mô hình này, Ramon Montovani (Đảng Phục hưng cộng
sản Italia) nhận xét, “ở phía Nam” là những nước tuy có nhiều đầu tư lớn của tư
bản nước ngoài và sự gia tăng đáng kể tổng sản phẩm trong nước, nhưng lại không
mở rộng được thị trường nội địa và không nâng cao được thu nhập cho người dân;
không chỉ là sự cách biệt ngày càng tăng giữa người giàu và người nghèo, mà còn
là sự gia tăng tuyệt đối con số đói nghèo ở những nước miền Nam này; thậm chí ở
nước giàu, nạn thất nghiệp, nghèo đói, căng thẳng xã hội vẫn tăng lên. Đây là
tình trạng xung đột trung tâm – ngoại vi ở cấp độ toàn cầu, khu vực, quốc gia
và địa phương – cục bộ. Trong “mô hình mới của sự phát triển TBCN” giai cấp vô
sản ở các nước giàu vẫn chỉ là “công nhân quí tộc” thôi.
Hai là, cuộc đấu
tranh vì CNXH của giai cấp vô sản ở các nước Tây Âu suy yếu, do hình thức bóc
lột lao động của tư bản đã biến đổi, giá cả sức lao động tại các nước giàu tăng
vọt. Công nghệ sản xuất được đẩy nhanh; sự ứng dụng đại trà công nghệ tin học
vào sản xuất; cơ sở vật chất kỹ thuật đang được tin học hoá…; tất cả những yếu
tố đó là nền tảng cho bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển lực lượng sản
xuất. Trong hệ thống lực lượng sản xuất, máy tính sẽ thực hiện chức năng là
“người lao động bán phần”. Như vậy sẽ không cần đến sự tập trung hoá lực lượng
sản xuất nữa. Và do đó, nội dung lao động của một bộ phận đáng kể những người
công nhân làm thuê đã thay đổi về cơ bản- máy tính hoá đã làm cho lao động trở
thành trí óc là chính. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ
tạo ra bước nhảy về chất trong nội dung lao động, mà còn kéo theo những hậu quả
tâm lí - xã hội khác, có tác động quan trọng đến diện mạo của giai cấp vô sản
trong thời kỳ mới. Một mặt, việc trí thức hoá lực lượng công nhân làm thuê có
khả năng tạo ra ảo tưởng tâm lí về sự phi vô sản hoá lực lượng làm thuê. Mặc
khác, nó làm cho sự khác biệt giữa những người “cổ cồn xanh” và “cổ cồn trắng”
(tức là về nội dung của lao động) không còn mang tính nguyên tắc nữa. Một khi
sự phân biệt đó biến mất thì sự phân biệt trong mối quan hệ đối với tư liệu sản
xuất sẽ hiện ra rõ nét. Điều đó có nghĩa là sự đối kháng giữa kẻ bóc lột và
người bị bóc lột, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản sẽ tăng lên mạnh hơn.
Từ
phân tích trên, cú thể khẳng định rằng đã có đủ cơ sở để nhìn nhận giai cấp vô
sản ở thế kỷ XXI là “động lực trí tuệ và
đạo đức”, và là “người thực thi” bước quá độ từ CNTB lên CNXH. Thứ nhất, nhờ tin học hoá quá trình sản
xuất vật chất và tinh thần mà lao động xã hội mang tính tập thể trở thành cái phổ
biến. Điều đó đang làm mâu thuẫn cố hữu của CNTB (mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội của lao động và hình thức chiếm hữu tư nhân) thêm sâu sắc và biến nó
thành mâu thuẫn đối khảng giữa tính chất
phổ biến của lao động với hình thức chiếm hữu tư nhân. Giai cấp vô sản mới
được “vũ trang” bằng máy tính để chống lại giai cấp tư sản xuyên quốc gia. Thứ hai, máy tính hoá sản xuất dẫn đến
việc tăng khả năng giao tiếp giữa những người vô sản có cùng chung lợi ích, vì
khi đó vô sản có cùng chung lợi ích, vì khi đó giao tiếp không đòi hỏi phải có
“sự tiếp xúc”. Do vậy, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản mới có điều kiện chuyển mạnh mẽ từ “trạng thái tự
phát” lên “tự giác”. Thứ ba, chính
giai cấp tư sản đóng góp phần gắn kết giai
cấp vô sản mới, mà cụ thể là giúp hình thành nên chủ nghĩa tập thể và tinh
thần đoàn kết của những người vô sản mới.
Với
những lý do đó, giai cấp vô sản mới sẽ
đại diện cho tư tưởng XHCN và là chủ thể xây dựng CNXH trong thế kỷ XXI; vận
mệnh của họ là giải quyết triệt để mâu thuẫn giữa lao động và tư bản.
Tuy nhiên, do tính chất không đồng đều trong sự phát
triển của các vùng khác nhau trên thế giới, ở ngưỡng cửa thế kỷ XXI, sẽ vẫn tồn
tại ba nhóm nước với các mối quan hệ giữa các giai cấp và các mâu thuẫn đặc
trưng riêng của từng nhóm.
Nhóm thứ nhất là các nước giàu “miền Nam”, đủ sức “đưa” sự đối kháng
của quan hệ bóc lột “ra ngoài”, tức là đẩy về ngoại vi. Giai cấp tư sản thuộc
nhóm này cố gắng “mua chuộc” giai cấp vô sản dân tộc để duy trì sự phát triển
“bình yên” của CNTB. Song, nguy cơ phá sản hệ thống tài chính quóc tế hoặc nguy
cơ không thoả thuận được về nguyên tắc phân chia thế giới giữa các trung tâm tư
bản như Mỹ, Tây Âu và Đông Nam Á rất có thể sẽ làm chấm dứt sự phát triển “bình
yên” ấy.
Nhóm thứ hai là các nước thuộc thế giới
thứ ba, nơi mới chỉ bắt đầu quá trình công nghiệp hoá. Với các nước thuộc nhóm
này, đâu tranh giải phóng dân tộc vẫn là xu hướng chủ đạo của cuộc đấu tranh
giai cấp. Trong giai đoạn cao trào, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được bổ
sung XHCN; còn lúc thoái trào thì nó trở lại vòng “thân thuộc” của thế giới
quan tư sản và tiểu tư sản dân tộc. Tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ máy tính
trong sản xuất sẽ góp phần làm hồi sinh tình đoàn kết giai cấp đã được hình
thành trong nửa đầu và giữa thế kỷ XX giữa giai cấp vô sản ở chính quốc và ở
thuộc địa.
Nhóm thứ ba gồm các nước đang quá độ từ phương thức sản xuất công
nghiệp sang phương thức sản xuất “máy tính hoá”. Tác giả cho rằng, đặc điểm của
các nước thuộc nhóm này là giai cấp vô sản ở đó chiếm ưu thế về số lượng. Trong
cuộc đấu tranh vì xu hướng phát triển XHCN nhất thiết phải dựa vào họ, đó là
tất yếu lịch sử. Xét về mặt lịch sử, giai cấp vô sản công nghiệp sẽ phải nhường
lại vai trò tiên phong cho giai cấp vô sản mới (“được vũ trang bằng máy tính”, điều đó có nghĩa là các công nhân “cổ
cồn trắng” sẽ có vai trò tích cực hơn “cổ cồn xanh”).
Khi
vai trò và sứ mệnh của công nghệ máy tính, cũng như sứ mệnh của giai cấp vô sản mới tăng lên thì ý nghĩa
của cuộc đấu tranh giai cấp dưới hình thức hệ tư tưởng càng tăng mạnh. Khi đã
xuất hiện hệ thống kiểu như Internet thì sẽ không thể có một xã hội đóng kín về
tư tưởng. Việc sử dụng rộng rãi máy tính đã hạn chế mạnh khả năng của nhà nước
trong việc kiểm soát thông tin – tư tưởng. Đây chính là một nét mới của cuộc
đấu tranh giai cấp. Nền sản xuất áp dụng công
nghệ máy tính đòi hỏi những thay đổi về cấu trúc và tổ chức chính trị của những
người lao động. Bên cạnh một đảng tiên phong được tổ chức tốt, có thể sẽ xuất
hiện một mạng lưới gồm các tổ chức chính trị thống nhất trong mặt trận tổ quốc-
dưới sự lãnh đạo của đảng. Cách mạng vô sản là một tất yếu vì “Dù thế nào đi
chăng nữa, thì việc chuyển sang phương thức sản xuất công nghệ mới – máy tính hóa, đã đánh dấu một giai đoạn mới trong sự khủng hoảng chung của CNTB và chỉ bằng
cách tạo ra cái nền tảng của CNXH mới có thể giải quyết được sự khủng hoảng
ấy”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét