Trước chế độ dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung trong tay một
cá nhân. Để chấm dứt chế độ này và đặt nền móng cho sự hình thành các thể chế tự
do, dân chủ, một học thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết
“Tam quyền phân lập”. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước không phải là một
thể thống nhất, mà phân chia thành 3 quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Các quyền này được thực hiện độc lập với nhau, kiểm soát và kiềm chế lẫn
nhau. Theo học thuyết này, quyền lực nhà nước phân chia thành các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp, không chỉ để chuyên môn hoá các quyền mà quan trọng
hơn là để giữa các quyền có sự giám sát, chế ước lẫn nhau, tạo nên sự cân bằng
về quyền lực giữa các cơ quan công quyền. Mỗi cơ quan được quyền hoạt động
trong lĩnh vực của mình, không có quyền trong lĩnh vực khác, nhưng có quyền
ngăn chặn cơ quan khác. Quyền lực ngăn chặn quyền lực chính là điểm cốt yếu
trong chủ trương phân chia quyền lực. Cơ quan hành pháp không có quyền thông qua
luật. Nhưng có quyền ngăn chặn lập pháp biểu quyết những đạo luật có hại cho quốc
gia... Ngược lại cơ quan lập pháp có quyền kiểm soát cơ quan hành pháp và khi
luật lệ ban hành không được áp dụng thì cơ quan lập pháp truy tố các cộng sự của
nhà vua. Cơ chế kiềm chế và đối trọng mà học thuyết “Tam quyền phân lập” đưa ra
nhằm mục đích giám sát và ngăn chặn lạm dụng quyền lực. Trong đó mỗi tổ chức sử
dụng quyền lực nhà nước đều có sự độc lập cần thiết, đồng thời có quyền và
phương tiện tương xứng để giám sát hoạt động của các cơ quan khác, tạo thế cân
bằng về quyền lực giữa các cơ quan. Đây chính là cơ sở lý luận để hình thành
nguyên tắc kiềm chế đối trọng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước được xác
định trong hiến pháp tư sản.
Có thể nói, ưu điểm quan
trọng nhất của học thuyết “Tam quyền phân lập” là tránh được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện quyền lực nhà nước.
Loại bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài. Với cơ chế kiềm chế và đối trọng,
kiểm tra và chế ước lẫn nhau giữa ba nhánh quyền lực đã loại trừ được nguy cơ tập
trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm người hay một cơ quan
quyền lực duy nhất nào đó- nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tha hoá trong quá
trình thực thi quyền lực.
Tuy nhiên thuyết “Tam quyền phận lập” còn tồn tại nhiều hạn chế. Với nguyên tắc “kiềm chế - đối trọng tuyệt đối”, thuyết tam quyền phân lập đã có phương pháp tư duy cơ giới - nhìn nhận mọi việc theo hướng tách biệt, không có mối liên hệ với nhau. Mặt khác, bản thân học thuyết phân quyền chứa nhiều yếu tố bất hợp lý, do việc đề cao sự phân quyền một cách tuyệt đối nên chưa thấy rõ được những phương thức kiểm soát quyền lực ngoài nhà nước, mất đi vai trò giám sát thường xuyên của nhân dân. Nếu thiếu sự giám sát này, việc phân lập các quyền cũng không giải quyết được vấn đề khi mà trên thực tế, ba quyền đều thuộc về liên minh của các nhóm chính trị. Việc phân quyền tuyệt đối ở các nước tư bản dẫn đến nạn tranh giành quyền lực thường xuyên giữa các đảng chính trị, các nhóm xã hội khác nhau để nắm một quyền hay toàn bộ quyền lực nhà nước. Trong điều kiện thiếu đạo đức chính trị và hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện thì sự tranh giành quyền lực này sẽ gây ra mất ổn định chính trị - xã hội, ảnh hưởng đến cuộc sống nhân dân. Hiện nay, trên thế giới không có một khuôn mẫu cố định của học thuyết nhà nước pháp quyền để áp dụng cho mọi nhà nước. Việc thiết kế cấu trúc của quyền lực nhà nước phải xem xét đến những yếu tố tác động như truyền thống chính trị, môi trường lịch sử, văn hóa, trình độ phát triển… Chính vì vậy, không thể khẳng định được rằng: mô hình phân quyền tuyệt đối là ưu việt.
Mỗi chúng ta cần nêu cao cảnh giác, không để các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá đất nước
Trả lờiXóa