Thứ Tư, 25 tháng 5, 2022

“TAM QUYỀN PHÂN LẬP” KHÔNG PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

Lịch sử lập hiến Việt Nam cho thấy, qua 5 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992, 2013) nhân dân Việt Nam không chỉ tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kế thừa những thành tựu của lịch sử lập hiến thế giới mà còn vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Trên thực tế, đây không phải là lần đầu tiên có những ý kiến đề nghị: “Cần thực hiện tam quyền phân lập trong tổ chức quyền lực nhà nước”. Trên thực tế, ở Việt Nam không theo mô hình nhà nước tư sản, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn luôn kiên định quan điểm về việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều này xuất phát từ những lý do sau:

Thứ nhất, tư duy cơ giới- nền tảng của thuyết tam quyền phân lập không phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý dân tộc Việt Nam.

Suốt chiều dài dựng nước và giữ nước, lịch sử đã chứng minh: Việt nam là dân tộc luôn đoàn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Cách đây 726 năm (năm 1288) dân tộc ta dã đoàn kết một lòng “sát thát”, đánh tan quân Nguyên-Mông, chấm dứt thời kỳ đô hộ của quân xâm lược phương Bắc. Sau này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, các lực lượng cách mạng, cả dân tộc đã dồn sức cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, một lần nữa chứng minh cho tinh thần đoàn kết một lòng làm nên sức mạnh của dân tộc ta. Khi đất nước tiến hành đổi mới, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng phá hoại khối đại đoàn kết, kích động, chống đối, nhằm gây mất ổn định chính trị- xã hội, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta, nhưng Đảng và Nhà nước ta tiếp tục phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc gia.

Có thể nói, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, thống nhất vì mục tiêu chung đã trở thành giá trị văn hóa, ăn sâu trong tiềm thức và lối sống của dân tộc ta. Chính vì lẽ đó, phương pháp tư duy cơ giới- nhìn nhận mọi việc theo hướng tách biệt, không có mối liên hệ với nhau, “kiềm chế- đối trọng tuyệt đối” của thuyết tam quyền phân lập đã không phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý của dân tộc ta, không được dân tộc ta chấp nhận.

Thứ hai, khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” là phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam.

Kế thừa những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, Đảng ta đã khẳng định nhất quán quan điểm: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Có thể nói, nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Theo đó, nhân dân thông qua lập hiến mà trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ rằng nhân dân không trao hết quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, Chính phủ và cơ quan tư pháp. Theo điều 84 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và điều 69 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, nhân dân chỉ giao cho Quốc hội 3 nhóm quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nghĩa vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Thực tiễn ở nước ta chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là ở nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhât trước tiên, là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” như Đảng ta đã chỉ ra. Bên cạnh đó, quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất nói trên còn là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân, hạn chế sự dự dẫm, ỷ lai trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nên tất yếu nhân dân phải phân công và kiểm soát quyền lực đó. Do đó, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta (sửa đôi, bổ sung năm 2011) và điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ hơn sự “phân công” và xác định kiểm soát quyền lực nhà nước là một nguyên tắc trong tổ chức quyền lực ở nước ta.

Như vậy, mặc dù nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập trong tổ chức bộ máy nhà nước nhưng Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập”, bằng việc quy định rõ các cơ quan nhà nước thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên thực tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Thực tiễn đã cho thấy, chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước mối có hiệu quả.  Ngoài ra, nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc quy định rõ sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) còn khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Và theo đó, đã quy định một chương riêng về các thiết chế hiến định độc lập, bao gồm ba cơ quan: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc ghi nhận các thiết chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm soát nhà nước hiện nay.

Có thể nói, mục tiêu cuối cùng của quan điểm thống nhất quyền lực nhà nước là phục vụ nhân dân. Đây là tính ưu việt tuyệt đối của Hiến pháp Việt Nam do thiết chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan quyền lực đem lại. Cả hệ thống chính trị Việt Nam: từ Đảng, Nhà nước cho đến Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội… với chức năng, quyền hạn, mối quan hệ chính trị, xã hội, pháp lý của minh đều nằm trong nội hàm của nhân dân, hướng tâm phục vụ nhân dân; thực hiện “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” chứ không phải để phân tách, phân giã quyền lực của nhân dân như các thiết chế tam quyền phân lập. Trong bối cảnh một Đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị, dựa trên nền tảng là khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam, mục đích của việc giành chính quyền không phải là giành quyền thống trị riêng cho minh, mà để giải phóng toàn xã hội, đưa người lao động, nhân dân lên địa vị làm chủ “xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”… thì quan điểm về “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập, hành pháp và tư pháp” càng được thực tiễn chức minh là đúng đắn, phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, vẫn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với nhân thức chủ đạo trong tổ chức quyền lực là phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nên chính phủ là cơ quan hành pháp vẫn thực hiện cả chức năng lập pháp và tư pháp như soạn thảo luật, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, xử lý vi phạm hành chính… Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (xét xử) vẫn được giao thực hiện quyền lập pháp (như trình các dự án luật, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật) và có cả quyền hành pháp (như việc bổ nhiệm thẩm phán…). Quốc hội- cơ quan lập pháp vẫn thực hiện một số nhiệm vụ thuộc chức năng hành pháp và tư pháp (thể hiện trong việc thực hiện một số quyết định thuộc thẩm quyền của hành pháp và tư pháp)… Sự phân công không rõ ràng, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ như trên đã dẫn đến việc phối hợp khó khăn, kém hiệu quả và khó kiểm soát lẫn nhau trong nội bộ các cơ quan, khó cho giám sát của nhân dân. Do vậy, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) đã có những quy định cụ thể nhằm khắc phục tình trạng nêu trên.

Tóm lại, xuất phát từ nguồn gốc tư tưởng, những ưu điểm, hạn chế của học thuyết tam quyền phân lập, xu hướng thống nhất quyền lực ở các nước tư bản, từ thực tiễn thể chế chính trị Việt Nam và truyền thống văn hóa, tâm lý dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã không lựa chọn thể chế “Tam quyền phân lập” trong tổ chức quyền lực nhà nước của mình là phù hợp. Tư tưởng về sự thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được khẳng định, thể hiện nhất quán trong đường lối, quan điểm và thực tiễn xây dựng mô hình thể chế chính trị Việt Nam. Đây là một trong những quan điểm, đường lối thể hiện sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta đối với những hạt nhân hợp lý của thuyết Tam quyền phân lập. Trong giai đoạn hiện nay, tư tưởng này đã và đang phát huy được vai trò của minh trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trở thành nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.

1 nhận xét:

  1. Mọi người dân phải tích cực đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động

    Trả lờiXóa