Lịch
sử lập hiến Việt Nam cho thấy, qua 5 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992,
2013) nhân dân Việt Nam không chỉ tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kế thừa
những thành tựu của lịch sử lập hiến thế giới mà còn vận dụng phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Trên thực tế, đây không phải là lần đầu tiên có những ý kiến đề
nghị: “Cần thực hiện tam quyền phân lập trong tổ chức quyền lực nhà nước”. Trên
thực tế, ở Việt Nam không theo mô hình nhà nước tư sản, nhưng Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta vẫn luôn kiên định quan điểm về việc tổ chức quyền lực nhà nước
theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Điều này xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, tư duy cơ giới- nền tảng của
thuyết tam quyền phân lập không phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý dân
tộc Việt Nam.
Suốt
chiều dài dựng nước và giữ nước, lịch sử đã chứng minh: Việt nam là dân tộc
luôn đoàn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Cách đây 726 năm (năm
1288) dân tộc ta dã đoàn kết một lòng “sát thát”, đánh tan quân Nguyên-Mông, chấm
dứt thời kỳ đô hộ của quân xâm lược phương Bắc. Sau này, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã giương cao ngọn cờ đoàn
kết dân tộc, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, các lực lượng cách mạng,
cả dân tộc đã dồn sức cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước. Chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ “lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu”, một lần nữa chứng minh cho tinh thần đoàn kết một lòng làm
nên sức mạnh của dân tộc ta. Khi đất nước tiến hành đổi mới, các thế lực thù
địch, phản động luôn tìm mọi cách hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”,
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng phá hoại khối đại đoàn kết, kích động,
chống đối, nhằm gây mất ổn định chính trị- xã hội, tạo cớ can thiệp vào công
việc nội bộ của ta, nhưng Đảng và Nhà nước ta tiếp tục phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc
gia.
Có
thể nói, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, thống nhất vì mục tiêu chung đã trở
thành giá trị văn hóa, ăn sâu trong tiềm thức và lối sống của dân tộc ta. Chính
vì lẽ đó, phương pháp tư duy cơ giới- nhìn nhận mọi việc theo hướng tách biệt,
không có mối liên hệ với nhau, “kiềm chế- đối trọng tuyệt đối” của thuyết tam
quyền phân lập đã không phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý của dân tộc
ta, không được dân tộc ta chấp nhận.
Thứ
hai, khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp” là phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam.
Kế
thừa những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, Đảng ta đã khẳng định nhất
quán quan điểm: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó tiếp tục khẳng
định “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do nhân dân và vì nhân
dân”; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Có
thể nói, nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước bắt
nguồn từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN: “tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân”. Theo đó, nhân dân thông qua lập hiến mà trao quyền
lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Tuy
nhiên, cần phải nhận thức rõ rằng nhân dân không trao hết quyền lực nhà nước
của mình cho Quốc hội, Chính phủ và cơ quan tư pháp. Theo điều 84 Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và điều 69 của Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, nhân dân chỉ giao cho Quốc hội 3
nhóm quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám
sát tối cao; quyền hạn và nghĩa vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước.
Thực
tiễn ở nước ta chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp
hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là ở nhân dân, đều do nhân
dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhât trước
tiên, là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước.
Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây
dựng một nhà nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh” như Đảng ta đã chỉ ra. Bên cạnh đó, quan điểm quyền lực nhà nước là thống
nhất nói trên còn là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm
trước nhân dân, hạn chế sự dự dẫm, ỷ lai trong việc thực hiện quyền hạn và
nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không chỗ cho các yếu tố
cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là
quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình
thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của
các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân
dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nên tất yếu nhân dân
phải phân công và kiểm soát quyền lực đó. Do đó, cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ ở nước ta (sửa đôi, bổ sung năm 2011) và điều 2 Hiến pháp
năm 2013 đã thể hiện rõ hơn sự “phân công” và xác định kiểm soát quyền lực nhà
nước là một nguyên tắc trong tổ chức quyền lực ở nước ta.
Như
vậy, mặc dù nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập trong tổ chức
bộ máy nhà nước nhưng Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013)
đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập”, bằng việc quy định rõ các cơ
quan nhà nước thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên thực tế.
Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên
nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát quyền
lực hiệu quả giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Thực tiễn đã cho thấy, chỉ
trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực
hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy
định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm soát quyền lực nhà nước mối có
hiệu quả. Ngoài ra, nhằm nâng cao tính hiệu
lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc quy định rõ
sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) còn khẳng định
cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Và theo đó, đã quy
định một chương riêng về các thiết chế hiến định độc lập, bao gồm ba cơ quan:
Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc ghi
nhận các thiết chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm chính
trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm soát
nhà nước hiện nay.
Có
thể nói, mục tiêu cuối cùng của quan điểm thống nhất quyền lực nhà nước là phục
vụ nhân dân. Đây là tính ưu việt tuyệt đối của Hiến pháp Việt Nam do thiết chế
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan quyền lực đem lại. Cả hệ thống
chính trị Việt Nam: từ Đảng, Nhà nước cho đến Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị, xã hội… với chức năng, quyền hạn, mối quan hệ chính trị, xã hội,
pháp lý của minh đều nằm trong nội hàm của nhân dân, hướng tâm phục vụ nhân
dân; thực hiện “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” chứ không phải để
phân tách, phân giã quyền lực của nhân dân như các thiết chế tam quyền phân lập.
Trong bối cảnh một Đảng cộng sản duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị, dựa trên
nền tảng là khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và toàn
thể nhân dân lao động Việt Nam, mục đích của việc giành chính quyền không phải
là giành quyền thống trị riêng cho minh, mà để giải phóng toàn xã hội, đưa
người lao động, nhân dân lên địa vị làm chủ “xây dựng nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người,
thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”… thì
quan điểm về “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập, hành pháp và tư
pháp” càng được thực tiễn chức minh là đúng đắn, phù hợp với thể chế chính trị
Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy việc phân công, phối hợp và kiểm
soát quyền lực ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, vẫn có sự chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với nhân thức chủ đạo trong tổ
chức quyền lực là phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nên chính phủ là cơ quan hành pháp vẫn thực
hiện cả chức năng lập pháp và tư pháp như soạn thảo luật, ban hành văn bản
hướng dẫn thi hành luật, xử lý vi phạm hành chính… Tòa án là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp (xét xử) vẫn được giao thực hiện quyền lập pháp (như trình các dự
án luật, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật) và có cả quyền hành pháp
(như việc bổ nhiệm thẩm phán…). Quốc hội- cơ quan lập pháp vẫn thực hiện một số
nhiệm vụ thuộc chức năng hành pháp và tư pháp (thể hiện trong việc thực hiện
một số quyết định thuộc thẩm quyền của hành pháp và tư pháp)… Sự phân công
không rõ ràng, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ như trên đã dẫn đến việc phối hợp
khó khăn, kém hiệu quả và khó kiểm soát lẫn nhau trong nội bộ các cơ quan, khó
cho giám sát của nhân dân. Do vậy, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (2013) đã có những quy định cụ thể nhằm khắc phục tình trạng nêu trên.
Tóm lại, xuất phát từ nguồn gốc tư tưởng, những ưu điểm, hạn chế của học thuyết tam quyền phân lập, xu hướng thống nhất quyền lực ở các nước tư bản, từ thực tiễn thể chế chính trị Việt Nam và truyền thống văn hóa, tâm lý dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã không lựa chọn thể chế “Tam quyền phân lập” trong tổ chức quyền lực nhà nước của mình là phù hợp. Tư tưởng về sự thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được khẳng định, thể hiện nhất quán trong đường lối, quan điểm và thực tiễn xây dựng mô hình thể chế chính trị Việt Nam. Đây là một trong những quan điểm, đường lối thể hiện sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta đối với những hạt nhân hợp lý của thuyết Tam quyền phân lập. Trong giai đoạn hiện nay, tư tưởng này đã và đang phát huy được vai trò của minh trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trở thành nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Mọi người dân phải tích cực đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động
Trả lờiXóa