Thứ Tư, 28 tháng 8, 2024

THÁI ĐỘ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRÀO LƯU XÃ HỘI DÂN CHỦ NHƯ THẾ NÀO?

 

Đối với chủ nghĩa xã hội dân chủ:

Đảng Cộng sản Việt Nam, nghiên cứu đánh giá, xem xét một cách nghiêm túc, khách quan, toàn diện hệ thống quan điểm của chủ nghĩa xã hội dân chủ để nhận rõ thực chất nội dung. Kiên quyết ngăn ngừa, chủ động, kịp thời đấu tranh ngăn chặn trào lưu tư tưởng này; coi chủ nghĩa xã hội dân chủ là một nguy cơ lớn đe dọa sự phân hóa tư tưởng trong Đảng và chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội dân chủ với những quan điểm cải lương, nguy hại về chính trị, kinh tế đang phối hợp chặt chẽ với chủ nghĩa chống cộng, tiến công về chính trị, tư tưởng trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, làm cho trong nội bộ xuất hiện diễn biến phức tạp, xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Đối với trào lưu xã hội dân chủ:

Thấy rõ nguồn gốc của trào lưu xã hội dân chủ không coi họ là kẻ thù. Cần phân tích, đánh giá một cách khách quan, công bằng đối với các quan điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Trân trọng sự ủng hộ của các tổ chức, cá nhân xã hội dân chủ đối với cách mạng Việt Nam. Tránh nhận thức không đúng, không thấy sự vận động của nó; cải thiện quan hệ hữu nghị, hợp tác với các đảng trong trào lưu xã hội dân chủ, không đẩy họ về phía kẻ thù. Mở rộng trao đổi về chính trị, tư tưởng, văn hóa, khoa học và tăng cường quan hệ với các đảng xã hội dân chủ trên nguyên tắc: tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc của nhau, bình đẳng cùng có lợi.

Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, chia rẽ, phá hoại, gây mất ổn định chính trị xã hội của Việt Nam. Đảng ta không để có hiện tượng bè phái, chia rẽ, các nhóm hoặc đảng viên theo hướng dân chủ xã hội; kiên quyết xử lý về mặt tổ chức những đảng viên “chuyển hóa tư tưởng chính trị” theo chủ nghĩa xã hội dân chủ, hệ tư tưởng tư sản, chủ động phòng ngừa, phê phán mọi biểu hiện tư tưởng xã hội dân chủ ở Việt Nam hiện nay.

VÌ SAO TRÀO LƯU DÂN TÚY LẠI TRỖI DẬY TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY?

 

- Xuất phát từ sự bất ổn của nền kinh tế thế giới, “siêu toàn cầu hóa” từ thập niên 1990 đã đưa đến nghịch lý: công nghệ sản xuất phần lớn được đưa từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia chậm hay đang phát triển và hàng hóa được chuyển theo chiều ngược lại. Do đó, lợi ích chủ yếu mang lại cho các công ty lớn hoặc đa quốc gia, trong khi đó những người lao động thiếu việc làm hoặc tay nghề thấp mất việc nhưng không có khả năng để tìm việc mới, gây bất bình trong người lao động.

- Sự già hóa dân số, sự xung đột về văn hóa, đời sống bấp bênh của người lao động, nhất là của những người yếu thế làm gia tăng sự bất mãn của người dân. Tình trạng già hóa dân số trong bối cảnh các thay đổi về lực lượng lao động ở các xã hội công nghiệp dẫn đến các phản ứng văn hóa cũng là nguyên nhân lý giải cho sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy.

- Cách mạng khoa học công nghệ, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã thay đổi mọi mặt của đời sống, từ kinh tế đến quan hệ giữa con người; quá trình cá nhân hóa thông tin tăng cao, tin giả tràn lan, làm cho người dân hiểu không đủ rõ vấn đề, dễ hoang mang, bị thông tin chi phối, dẫn dắt.

- Chính sách xã hội phải đối mặt với nhiều thách thức, chi phí cho chính sách an sinh đối với người già, tàn tật, thất nghiệp hay hưu trí càng tăng làm gia tăng đáng kể số nợ của chính phủ, theo đó, nợ nần luôn đè nặng lên đời sống vốn đã khó khăn của không ít người dân và của xã hội.

- Sự quan liêu xa rời và thiếu gần gũi với nhân dân của giới quan chức cầm quyền đã tạo ra một khoảng cách lớn giữa lợi ích và tiếng nói của người dân hoặc của một số tầng lớp dân cư với giới chức cầm quyền hoặc những người có quyền lực trong xã hội.

- Di dân và di tản toàn cầu, với nhiều lý do, thật sự là thách thức đối với các chính phủ, khoét sâu sự ngăn cách về tâm lý giữa người đến và người sở tại về những khó khăn trong giải quyết, tiếp cận cơ hội, việc làm và phát triển.

Tình hình thế giới biến đổi sâu sắc, tình trạng bất bình đẳng gia tăng, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội chưa được giải quyết tốt, lợi ích chính đáng, hợp pháp của số đông người lao động chưa được quan tâm giải quyết hiệu quả… là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy ở các nước Âu, Mỹ hiện nay.

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TRÀO LƯU XÃ HỘI DÂN CHỦ TRUYỀN THỐNG VÀ TRÀO LƯU XÃ HỘI DÂN CHỦ HIỆN ĐẠI LÀ GÌ?

 

Những khác biệt giữa chủ nghĩa xã hội dân chủ truyền thống và chủ nghĩa xã hội dân chủ hiện đại thể hiện ở một số nội dung sau:

Về cơ sở lý luận: các đảng xã hội dân chủ truyền thống cho rằng, lấy giai cấp để làm cơ sở phân chia ranh giới chính trị. “Chủ nghĩa xã hội dân chủ truyền thống là chính trị giai cấp của phái tả, nền tảng cử tri chủ yếu của nó là giai cấp những người lao động chân tay”[1].  Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ hiện đại: thu hút tập hợp các lực lượng chính trị, trong đó lấy lực lượng trung gian làm hạt nhân, vứt bỏ chính trị giai cấp, theo đuổi, ủng hộ “vượt giai cấp”.

 

Về chế độ sở hữu và chính sách kinh tế: chủ nghĩa xã hội dân chủ truyền thống: thời kỳ đầu chủ trương công hữu, sau họ lại chủ trương xây dựng nền kinh tế hỗn hợp: tư nhân kết hợp với quốc doanh; kế hoạch kết hợp với thị trường xã hội; ung hộ nhà nước can thiệp toàn diện (bảo hiểm, tăng trưởng, việc làm, giáo dục, y tế, văn hóa…); xây dựng nhà nước phúc lợi.

Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ hiện đại: giảm bớt sự can thiệp của nhà nước, kết hợp sự can thiệp của nhà nước với thị trường tự do. Kết hợp chính phủ với giới công nghiệp và các ngành kinh tế.

Về vai trò nhà nước và chức năng của chính phủ: chủ nghĩa xã hội dân chủ truyền thống: chủ trương mở rộng vai trò của chính phủ và của nhà nước. Coi nhà nước là công cụ chủ yếu để cải tạo và xây dựng xã hội. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ hiện đại cho rằng: thời đại tập quyền trung ương và đồ sộ đã qua và sẽ không bao giờ trở lại nữa, chủ trương trao quyền cho cấp dưới. Chính phủ chỉ dẫn dắt chứ không bao biện, tăng cường quyền lực cho địa phương để được tiếp cận nhiều với nhân dân.

Về chế độ phúc lợi xã hội: Chủ nghĩa xã hội dân chủ truyền thống: chủ trương xây dựng một nhà nước phúc lợi chung, chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản xã hội. Chế độ phúc lợi đầy đủ là tiêu chí của một xã hội nhân đạo, vì thế phải duy trì một nhà nước phúc lợi tối đa, góp phần thúc đẩy công bằng xã hội, hòa hoãn mâu thuẫn giai cấp. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ hiện đại cho rằng: Phúc lợi không phải chỉ bảo đảm an toàn mà phải tạo cơ hội giúp đỡ mọi người trong thế giới đầy biến động hiện nay.

Vấn đề quan hệ quốc tế: Chủ nghĩa xã hội dân chủ truyền thống: chủ trương giải trừ quân bị; chống chạy đua vũ khí hạt nhân; lên án chính sách thực dân của chủ nghĩa đế quốc; ủng hộ cuộc đấu tranh dân tộc, dân chủ của thế giới thứ ba; cải thiện quan hệ với các đảng cộng sản, tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa; lấy bảo vệ môi trương sinh thái làm chính sách cơ bản.

Còn chủ nghĩa xã hội - dân chủ hiện đại: nhấn mạnh lấy giá trị phương Tây làm nền tảng chứ không lấy hình thái ý thức như chủ nghĩa xã hội dân chủ truyền thống làm cơ sở xuất phát; ủng hộ mở rộng NATO, biến nó thành đồng minh kinh tế, chính trị, quân sự lớn mạnh; can thiệp vào các nước có chủ quyền; lấy cớ để thích ứng đối với toàn cầu hóa, yêu cầu cải tổ các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới... làm cho nó phù hợp với lợi ích của phương Tây hơn.



[1] Antoni Giden - Viện Kinh tế - chính trị Luân Đôn, thầy và cố vấn chính trị của Thủ tướng Anh - Tony Blair

SỰ KHÁC NHAU CĂN BẢN GIỮA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ LÀ GÌ?

 

Sự khác biệt này của chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa xã hội dân chủ được thể hiện trên các vấn đề cơ bản sau:

Về biện pháp cách mạng: Chủ nghĩa xã hội khoa học vạch rõ: chỉ thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội mới giải phóng được giai cấp vô sản và quần chúng bị áp bức, bóc lột; chủ nghĩa xã hội dân chủ lại cho rằng: phải điều hòa mâu thuẫn và hợp tác giai cấp. Đặt phong trào của giai cấp công nhân vào trong khuôn khổ của cải cách kinh tế mà chủ nghĩa tư bản có thể chấp nhận được. Nhấn mạnh con đường hòa bình, dân chủ, cải lương xã hội để giải phóng người lao động.

Về quyền sở hữu: Chủ nghĩa xã hội khoa học: chủ trương xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ công hữu; thông qua cách mạng chính trị để giành chính quyền về tay người lao động. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ: chủ trương duy trì nhà nước tư bản và chế độ sở hữu tư sản. Hướng hoạt động vào việc cải biến, điều chỉnh sở hữu tư liệu sản xuất.

Về vai trò của Đảng: Chủ nghĩa xã hội khoa học: khẳng định sự cần thiết phải có chính đảng của giai cấp công nhân và chính đảng này phải lãnh đạo toàn xã hội. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ cho rằng: Đảng là một cộng đồng, không cần thuần nhất về thế giới quan, xây dựng các đảng phái, các hiệp hội cùng điều khiển đời sống chính trị theo hướng cân bằng quyền lợi, cân bằng lợi ích.

Về vai trò của giai cấp công nhân: chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng đinh nhất quán: giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ: họ làm lu mờ và phủ nhận vai trò của giai cấp công nhân đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Về vấn đề nhà nước: Chủ nghĩa xã hội khoa học: bản chất nhà nước kiểu mới là nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ: nhà nước phúc lợi chung, nhà nước của nhiều giai cấp, nhiều tập đoàn xã hội. Dân chủ đại nghị, đa nguyên chính trị.

Về chủ nghĩa quốc tế: Chủ nghĩa xã hội khoa học: cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp có tính quốc tế, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ: tôn sùng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc xoá mờ ranh giới giai cấp.

Về vấn đề cơ sở lý luận: Chủ nghĩa xã hội khoa học: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tư tưởng, cơ sở lý luận, là thế giới quan khoa học, lập trường chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Còn chủ nghĩa xã hội dân chủ: công khai đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác, trung lập về thế giới quan, không xác định được một hệ thống lý luận nào làm hệ tư tưởng chính trị.

NGUYÊN NHÂN SỰ BIẾN ĐỔI QUAN HỆ GIỮA NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN VỚI NGƯỜI XÃ HỘI DÂN CHỦ TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY LÀ GÌ?

 

Sau chiến tranh lạnh, do xu thế thời đại, bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc; từ thực tiễn cách mạng, sự đòi hỏi của phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ, những người xã hội dân chủ và những người cộng sản phải xích lại gần nhau hơn. Sự biến đổi này là do những nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, xuất phát từ bản chất vốn có của của giai cấp công nhân, thống nhất về sự nghiệp và lợi ích cách mạng. Giai cấp công nhân thế giới không phân biệt quốc gia dân tộc, luôn chủ trương đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Thứ hai, một số người thuộc lực lượng cánh “Tả” trong các Đảng xã hội - dân chủ luôn có chủ trương hợp tác với những người cộng sản. Họ chủ trương cải thiện một cách sâu sắc, toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội một khi họ có đại biểu chiếm đa số trong Quốc hội.

Ba là, ngày nay, để giải quyết những vấn đề toàn cầu, không có một lực lượng chính trị hay một quốc gia nào có thể đơn độc giải quyết được mà bắt buộc phải có sự hợp tác của tất cả các lực lượng chính trị, các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Những vấn đề đó là: môi trường sinh thái; bùng nổ dân số, di dân tự do; các bệnh tật hiểm nghèo; khủng bố quốc tế, tội phạm quốc tế...

Bốn là, những thành tựu trong công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được. Các đảng cộng sản đã và đang khắc phục có hiệu quả những quan điểm rập khuôn, cứng nhắc về lý luận; bám sát hơn đời sống chính trị thế giới, chuyển đổi phù hợp với xu thế của thời đại. Các đảng cộng sản chủ trương quan hệ, hợp tác với tất cả các đảng cầm quyền, các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới, trong đó có các đảng xã hội - dân chủ.

Năm là, từ sau chiến tranh lạnh đến nay, quan hệ giữa các đảng cộng sản và xã hội dân chủ được cải thiện và phát triển với chủ trương đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế để trao đổi lý luận, kinh nghiệm, tăng cường quan hệ, đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau.

ĐẶC TRƯNG CỦA TRÀO LƯU XÃ HỘI DÂN CHỦ LÀ GÌ?

 

- Xã hội dân chủ là một trào lưu trung dung đứng giữa các trào lưu khác. Đúng như V.I.Lênin chỉ rõ: “Do bản chất của mình, phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rõ rang và dứt khoát; bao giờ nó cũng tìm con đường trung dung, nó quanh co uốn khúc như con rắn nước giữa hai quan điểm này lẫn quan điểm kia, … lẩn tránh một cách khéo léo, mọi sự trình bày rõ rang những nguyên tắc của nó”[1]. Đặc trưng này không chỉ thể hiện khi còn là một xu hướng cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà ngay cả khi trở thành một chủ thuyết độc lập.

- Chủ nghĩa xã hội dân chủ không nhất quán về thế giới quan. Trào lưu này xuất phát từ ba cuội nguồn: triết học đạo đức thời kỳ Khai sang, đạo Thiên Chúa (phái tả) và chủ nghĩa Mác. Lúc đầu chủ nghĩa Mác chi phối rất mạnh, hai cuội nguồn kia yếu hơn. Trong quá trình phát triển thì chủ nghĩa Mác thu hẹp lại còn hai cuội nguồn kia thì phát triển lớn hơn.

- Đảng xã hội dân chủ chuyển từ đảng gia cấp sang đảng nhân dân. Sự chuyển biến này nhằm thích nghi với điều kiện kết cấu giai cấp để thu hút được lực lượng vào đảng và ủng hộ đảng. Song, theo xu hướng này sẽ có thể biến đảng thành phong trào xã hội, mất dần tính chất tiên phong của gia cấp tiên tiến.

- Hòa hợp giai cấp là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Ngay cả khi trở thành đảng cầm quyền, các đảng xã hội dân chủ đã áp dụng chính sách phối hợp hòa giải giữa giới chủ và lao động, có tác dụng tạo nên sự đồng thuận xã hội. Nhưng trong quan hệ này giới chủ luôn giữ vững vai trò chủ thể, đảng xã hội dân chủ có lập trường lại không rõ rang, thì nhà nước sẽ nghiêng về giới chủ.



[1] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.8, tr.476-478

TRÀO LƯU XÃ HỘI DÂN CHỦ LÀ GÌ?

 

 Thuật ngữ “Xã hội - dân chủ” ra đời đầu tiên trên văn đàn ở Đức dưới tên tờ báo Người xã hội - dân chủ  xuất bản từ ngày 5 tháng 12 năm1864 đến ngày 26 tháng 4 năm 1871, là tiếng nói của công nhân và công đoàn. Nó thể hiện tư tưởng xây dựng một xã hội dân chủ và xã hội gắn liền với công bằng xã hội đối lập với nhà nước dân tộc sôvanh và quân phiệt của Đức thời bấy giờ. Trào lưu này, lúc đầu chịu ảnh hưởng tích cực của chủ nghĩa Mác, về sau xa dần mục tiêu đấu tranh của phong trào công nhân, thực hiện những thỏa hiệp chính trị với giai cấp công nhân.

“Chủ nghĩa xã hội dân chủ” là quan điểm tư tưởng và chính trị rất đa dạng về cải tạo chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội bằng con đường cải cách dân chủ, đối lập với hệ tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học và thực tiễn hoạt động của các đảng cộng sản và công nhân. Chủ nghĩa xã hội dân chủ là tên gọi thống nhất của hệ thống tư tưởng và mô hình mục tiêu của đảng dân chủ xã hội ở các nước. Chủ nghĩa xã hội dân chủ bác bỏ những luận điểm quan trọng nhất của học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản. Họ tuyên truyền về “hợp tác gai cấp”, “hòa bình xã hội”, về những việc tự tu dưỡng đạo đức, về tư tưởng của thuyết đa chính trị, tư tưởng về trách nhiệm toàn cầu …

CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI TRONG PHONG TRÀO CÔNG NHÂN QUỐC TẾ TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY NHƯ THẾ NÀO?

 

Ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, mặc dù đảng cộng sản vẫn giữ được vai trò lãnh đạo; nhưng trong đảng, trong phong trào công nhân cũng đã xuất hiện những tư tưởng cơ hội với các biểu hiện khác nhau. Chủ nghĩa cơ hội ở đây chia làm 2 loại: Chủ nghĩa cơ hội tầm thường và chủ nghĩa cơ hội chính trị.

Chủ nghĩa cơ hội tầm thường không gắn với những sai lầm trong nhận thức lý luận, nhưng lại biểu hiện khá phong phú trong cuộc sống hàng ngày. Nó xuất hiện dưới các dạng như: chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa trọng ngân, thói xu nịnh, luồn cúi, bon chen để mong tìm kiếm những lợi ích vật chất hay tinh thần của cá nhân. Kẻ cơ hội loại này sẵn sàng bán cả danh dự, lương tâm để đạt mục đích mong muốn và do đó chúng có thể đổi trắng thay đen, nói xấu, vu khống người khác, tìm mọi cách để đề cao mình, tạo bè phái, gây mất đoàn kết nghiêm trọng trong tập thể.

Những người cộng sản khi đã sa vào chủ nghĩa cơ hội tầm thường, họ tự đánh mất vai trò tiên phong của người đảng viên, gây tổn thất lớn đến uy tín chung của đảng trong nhân dân. Từ người cơ hội tầm thường, người ta dễ trở thành người cơ hội chính trị và dễ trở thành kẻ phản bội sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin một cách nhanh chóng. Để đấu tranh với loại cơ hội này, các đảng cộng sản phải tăng cường giáo dục, nâng cao trình độ chính trị, rèn luyện đảng viên trong hoạt động thực tiễn cách mạng, thường xuyên tiến hành đấu tranh phê và tự phê bình, củng cố phẩm chất chính trị cho đội ngũ đảng viên.

Chủ nghĩa cơ hội chính trị trong các đảng cầm quyền thường được che chắn một cách kín đáo hơn và trên thực tế thường xuất hiện dưới 2 dạng là chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều. Chủ nghĩa xét lại đòi xem xét lại những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận ý nghĩa phổ biến của học thuyết này trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; không thừa nhận những quy luật cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa xét lại cho rằng thế giới đã chuyển sang thời kỳ chấm dứt mọi cuộc đối đầu, chấm dứt đấu tranh giai cấp để cùng chung sống hòa bình. Họ cổ động cho quan điểm hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, khuyến khích các đảng cộng sản và công nhân thực hiện sự thỏa hiệp với các chính phủ tư sản, những quan điểm cách mạng, mác xít trước đây đều bị coi là lạc hậu, lỗi thời.

SỰ SỤP ĐỔ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU VÀ LIÊN XÔ LÀ DO NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU NÀO?

 

 Nguyên nhân sâu xa: Do nhận thức và vận dụng một cách giáo điều, máy móc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin; chủ quan duy ý chí muốn nhanh chóng có ngay chủ nghĩa xã hội, nên đã xóa bỏ các hình thức sở hữu trung gian, ồ ạt công hữu hóa trong khi lực lượng sản xuất còn thấp, trình độ quản lý còn hạn chế. Mô hình này đã tuyệt đối hóa cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao, gần như từ bỏ nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Điều đó trái với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp: Trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đuờng lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cuộc cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ năm 1986 đã kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn vào năm 1991. Đường lối cải tổ ở Liên Xô thực chất là đường lối trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin. Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng thường xuyên tiến hành một cuộc chiến tranh cả về phương thức vũ trang và phi vũ trang để chống chủ nghĩa xã hội, mà mũi nhọn là Liên Xô. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài luôn theo sát và tìm mọi cách để lái quá trình cải tổ về tư tưởng, chính trị và tổ chức theo ý đồ của chúng. 

CÔNG CUỘC CẢI TỔ Ở LIÊN XÔ ĐÃ DIỄN RA NHƯ THẾ NÀO?

 

Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 báo hiệu một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu, đòi hỏi các quốc gia trên thế giới phải đổi mới, thích nghi về kinh tế, chính trị, xã hội… Trong bối cảnh đó, Liên Xô chậm thích ứng, chậm sửa đổi dẫn đến lâm vào tình trạng “trì trệ”, “tiền khủng hoảng”.

Tháng 3 năm 1985, M.Goocbachốp được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Tại Đại hội lần thứ 27 Đảng Cộng sản Liên Xô, Goocbachốp đưa ra chủ trương cải tổ với đường lối “đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước” (Chiến lược tăng tốc) rất được nhân dân kỳ vọng, nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng và xây dựng một chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhân văn đúng như bản chất của nó.

 Mục tiêu cải tổ rất tốt đẹp, được nhân dân chờ đợi, song trong gần 6 năm tiến hành cải tổ, do không lường hết khó khăn, thiếu sự chuẩn bị chu đáo nên công cuộc cải tổ đi vào bế tắc, hậu quả là nền kinh tế tụt hậu. Năm 1989, tổng sản phẩm quốc dân giảm 4-5%, năng suất lao động xã hội giảm 2,5%… Trước tình hình đó, ban lãnh đạo Liên Xô vội chuyển sang cải tổ chính trị cực đoan, đến mức chấp nhận chế độ đa đảng, thiết lập chế độ Tổng thống (1990). Lợi dụng tình hình đó các thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội, một số nước cộng hòa đòi ly khai. Đất nước Liên Xô rơi vào khủng hoảng toàn diện, công cuộc cải tổ bị trượt ra khỏi mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Ngày 19 tháng 8 năm 1991, một số người lãnh đạo Đảng và nhà nước Xô viết tiến hành đảo chính lật đổ Tổng thống M. Goocbachốp. Cuộc đảo chính thất bại. Trở lại nắm quyền, Goocbachốp đình chỉ hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô (9-1991), Quốc hội bãi bỏ Hiệp ước Liên bang năm 1922. Theo sáng kiến của 3 nước cộng hòa (Nga, Ucraina, Bêlarut) ngày 21 tháng 12 năm 1991, 11 nước cộng hòa ký hiệp ước giải thể Liên Xô và chính thức tuyên bố thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Ngày 25 tháng 12 năm 1991, Goocbachốp từ chức Tổng thống, lá cờ đỏ búa liềm bị hạ xuống, Liên bang Xô viết chính thức bị tan vỡ.

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2024

NHỮNG BẤT ĐỒNG, MÂU THUẪN TRONG PHONG TRÀO CỘNG SẢN TỪ GIỮA THẬP NIÊN 50 ĐẾN CUỐI THẬP NIÊN 60 CỦA THẾ KỶ XX NHƯ THẾ NÀO?

 

Từ giữa những năm 50 của thế kỷ XX trở đi, trong phong trào cộng sản  cũng như trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa nảy sinh bất đồng về quan điểm, đường lối và lợi ích.

- Từ những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, trong Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có những quan điểm xét lại, đề cao chủ nghĩa dân tộc, sùng bái cá nhân lãnh tụ, muốn thực hiện cuộc “đại nhảy vọt”, nên không quan tâm đến các đảng cộng sản anh em. Những quan điểm tư tưởng dân tộc hẹp hòi của nhóm người Mao ít không thống nhất với quan điểm, đường lối của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bất đồng với các đảng cộng sản trong phe xã hội chủ nghĩa ngày càng gay gắt.

- Những bất đồng đó ngày càng trở nên sâu sắc, đặc biệt là giữa Liên Xô và Trung Quốc, được bộc lộ rõ kể từ sau chuyến thăm Bắc Kinh của N.Khơrusôp (1954) - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ năm 1960 trở đi, quan hệ Liên Xô - Trung Quốc xấu đi một cách nghiêm trọng, mâu thuẫn trở nên công khai, báo chí hai nước lên tiếng tố cáo lẫn nhau. Từ năm 1961 - 1965, bắt đầu luận chiến công khai giữa hai đảng cộng sản, các đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc công khai phê phán Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng anh em khác, kêu gọi Liên hiệp Công đoàn thế giới ủng hộ quan điểm của họ.

- Trước tình trạng đó, năm 1962 các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã gửi thư cho Đảng Cộng sản Trung Quốc biểu thị sự lo lắng và yêu cầu chấm dứt đưa ra những lời buộc tội lẫn nhau; nhưng Trung Quốc không trả lời, mà con đe dọa gây chiến ở biên giới Trung - Xô. Đỉnh cao của sự bất đồng là xung đột biên giới nổ ra nhiều lần trong năm 1969[1], quan hệ giữa hai nước đã mang tính chất thù địch rõ rệt. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (4-1969) gọi Liên Xô là “bọn xét lại” và coi Liên Xô đồng lõa với đế quốc Mỹ, tuyên bố “một thời kỳ mới chống bọn đế quốc Mỹ và bọn xét lại Liên Xô bắt đầu”; còn N.Khơrusôp thì tuyên bố: “Cuộc xung đột với Trung Quốc là không thể tránh khỏi”[2].

Những bất đồng, mâu thuẫn giữa các đảng cộng sản, nhất là Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô là một tổn thất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng thời tác động tiêu cực đến cách mạng Việt Nam. 


[1] Ngày 2/3: Xảy ra một cuộc đột kích vũ trang do Bắc Kinh trù hoạch từ trước lên Đảo Đa-Manxki trên sông Út-xu-ri ở vùng biên giới Xô - Trung. Bọn mao ít đã dùng lựu đạn, dao găm tấn công đồn biên phòng. Kết quả: 31 chiến sĩ biên phòng bị chết, nhiều người bị thương. Những ngày tiếp theo, Trung Quốc đã huy động 260 triệu người tham gia mít tinh và tuần hành chống Liên Xô. Ngày 14-15/5 một đơn vị Quân đội Trung Quốc tiếp tục đổ bộ lên Đảo Đa-manxki, đồng thời Chính phủ Trung Quốc đưa ra yêu sách về lãnh thổ đối với Liên Xô.

[2] Khorusov N, Hồi ký, Nxb Robert Lafont Paris, bản dịch, lưu tại Viện Hồ Chí Minh, tr. 68.

NỘI DUNG CHỦ YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI NGHỊ QUỐC TẾ CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN NĂM 1969 LÀ GÌ?

 

Từ ngày 05 đến ngày 17 tháng 6 năm 1969, Hội nghị quốc tế gồm đại biểu của 75 đảng cộng sản và công nhân đã họp tại Mátxcơva. Những nội dung chủ yếu trong Hội nghị này là:

- Hội nghị đã thảo luận và thông qua văn kiện: Nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trong giai đoạn hiện nay; sự thống nhất hành động của các đảng cộng sản và công nhân, của tất cả các lực lượng chống đế quốc.

- Hội nghị phân tích tình hình thế giới, những đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc đương thời, chiến lược, sách lược của chúng.

- Hội nghị đưa ra kết luận “chủ nghĩa đế quốc vẫn là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân thế giới”. Do vậy, cần phải đoàn kết tất cả các lực lượng của phong trào cộng sản và các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc.

- Kết quả Hội nghị đã thúc đẩy các hoạt động của các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng và dân chủ những năm sau đó. Tình đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa lúc này đã được củng cố, uy tín của hệ thống xã hội chủ nghĩa được tăng cường. Các đảng cộng sản một lần nữa được củng cố thêm những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế được củng cố vững mạnh thêm một bước. Các lực lượng cơ hội, xét lại bị loại ra khỏi hàng ngũ của Đảng.

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA HỘI NGHỊ CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ NĂM 1960 LÀ GÌ?

 

Tháng 11 năm 1960, Hội nghị đại biểu 81 đảng cộng sản và công nhân được tổ chức tại Mátxcơva nhân kỷ niệm 43 năm Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Những đóng góp chủ yếu của Hội nghị này là:

- Hội nghị đã thông qua bản Tuyên bố và Lời kêu gọi nhân dân toàn thế giới, nêu rõ những luận điểm chủ yếu về những vấn đề cơ bản của thời đại ngày nay; tính chất của thời đại; vấn đề phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa; vấn đề chiến tranh và hòa bình; vấn đề giải phóng dân tộc; vấn đề đấu tranh cách mạng trong các nước tư bản chủ nghĩa; vấn đề tăng cường đoàn kết phong trào cộng sản quốc tế.

- Điểm nổi bật của bản Tuyên bố là đã nêu lên một cách toàn diện và sâu sắc tính chất của thời đại: “Thời đại chúng ta mà nội dung chủ yếu là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại. Là thời đại đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập, là thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc, là thời đại chủ nghĩa đế quốc bị sụp đổ và hệ thống thuộc địa bị thủ tiêu, là thời đại ngày càng có nhiều dân tộc tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, là thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới”.[1]

- Hội nghị là hình thức thích hợp nhất để các đảng cộng sản và công nhân trao đổi ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm. Sự ra đời của Cương lĩnh đã góp phần thúc đẩy phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ.



[1]Văn kiện Hội nghị Đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân tại Mátxcơva… NXB Sự thật, HN.1961, tr. 17- 18.

NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA HỘI NGHỊ CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ NĂM 1957 LÀ GÌ?

 

Từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 10 năm 1957, đại biểu của 12 đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa đã tổ chức Hội nghị tại Mátxcơva. Những đóng góp của Hội nghị là:

- Hội nghị đã phân tích tình hình thế giới, những khuynh hướng đang nảy sinh, xác định nội dung chủ yếu của thời đại chúng ta “Là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng cách Cạng tháng Mười Nga vĩ đại”.

- Đưa ra nhận định chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì nguy cơ chiến tranh còn tồn tại.

- Hội nghị nhất trí thực hiện nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau.

- Sự đoàn kết của phong trào công nhân, phong trào giải phóng dân tộc và dân chủ quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh thời đại góp phần quan trọng trong chiến thắng chủ nghĩa đế quốc.

- Hội nghị đã thống nhất về các vấn đề căn bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa và của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chỉ ra một số quy luật chung bắt buộc đối với tất cả các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

 - Hội nghị khẳng định sự đúng đắn của các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xác định việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin cho quần chúng là nhiệm vụ hàng đầu của phong trào cộng sản. Đặc biệt trong hội nghị này, các đại biểu rất quan tâm tới việc đấu tranh chống khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa và làm sáng tỏ hơn bản chất và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa cơ hội các loại; chỉ rõ các đảng cộng sản và công nhân phải kiên quyết bảo vệ sự thống nhất hàng ngũ của mình theo tinh thần Mác-xít.

- Hội nghị đã nhất trí ra tuyên bố chung, công bố trước toàn thế giới về những kết luận của mình, coi đó là nền tảng tư tưởng cho sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới. Theo kết luận của Hội nghị tháng 9 năm 1958, tạp chí “Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội” đã ra số đầu tiên, sau đó được xuất bản bằng 34 thứ tiếng và phát hành ở 145 nước trên thế giới. Tạp chí đã đóng góp vào việc bảo vệ, phát triển và truyền bá lý luận Mác - Lênin, vào cuộc đấu tranh chống hệ tư tưởng tư sản.

CỤC THÔNG TIN QUỐC TẾ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?

 

Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ đã câu kết với nhau thiết lập hệ thống quốc tế, phát động chiến tranh lạnh, bao vây ngăn chặn nhằm tiêu diệt phong trào cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, những người cộng sản thấy cần có một hình thức tổ chức để tăng cường sự tiếp tục trao đổi thông tin, kinh nghiệm hoạt động của các đảng cộng sản. Cuối tháng 9 năm 1947, đại biểu các đảng cộng sản Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungari, Hunggari, Rumani, Nam Tư, Pháp và Italia đã họp tại Vacsava (Balan) và thành lập “Cục Thông tin quốc tế”. Nội dung hoạt động cơ bản của Cục Thông tin quốc tế là:

- Tăng cường đoàn kết, phối hợp hành động giữa các đảng cộng sản và các lực lượng chống đế quốc. Nêu lên những nhiệm vụ căn bản cho các đảng cộng sản trong đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới.

- Tiến hành trao đổi thông tin, kinh nghiệm giữa các đảng cộng sản, đã thống nhất đưa ra những đánh giá quan trọng về tình hình thế giới sau chiến tranh để làm cơ sở cho các đảng cộng sản xác định chiến lược, sách lược hoạt động ở nước mình cũng như xác định hướng đi chung cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Tháng 4 năm 1956, đứng trước tình hình phát triển mới của  thế giới, Cục Thông tin quốc tế không đáp ứng được đòi hỏi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã tuyên bố giải tán, chấm dứt hoạt động để nhường chỗ cho các hoạt động quốc tế rộng lớn hơn.

SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NHƯ THẾ NÀO?

 

Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã dẫn đến sự ra đời của một kiểu nhà nước mới - Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sau đó thành lập Liên bang Cộng hòa chủ nghĩa xã hội Xô viết (Liên Xô) vào năm1922. Thắng lợi của Liên Xô trong chiến tranh thế giới lần thứ hai đã bảo vệ được chế độ xã hội chủ nghĩa, khẳng định tính ưu việt và sức sống của chủ nghĩa xã hội, làm thay đổi căn bản cục diện thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng nhiều nước nổ ra và thắng lợi.

 Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm các nước Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Cuba. Năm 1960, tại Mátxcơva, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước trên thế giới đã ra tuyên bố và khẳng định: Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người.      

Từ tháng 11 năm 1917 cho đến tháng 8 năm 1991, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tồn tại hơn 70 năm ở Liên Xô, hơn 40 năm ở các nước Đông Âu (kể từ năm 1945). Chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới đã trải qua một thời kỳ phát triển rực rỡ, có những thành tựu nổi bật là:

Chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa được hình thành, phát triển, đã xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, từng bước đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ xã hội. Đảng cộng sản giữ vai trò lãnh đạo toàn xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng, hoàn thiện; đồng thời thúc đẩy phong trào đấu tranh giành quyền tự do, dân chủ trên toàn thế giới.

Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ lực lượng sản xuất hiện đại, bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Với sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội hiện thực ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Về khoa học và công nghiệp quốc phòng chủ nghĩa xã hội hiện thực có bước tiến nhảy vọt, tạo được thế cân bằng về quân sự, phá vỡ thế độc quyền hạt nhân của Mỹ, đủ sức răn đe âm mưu chủ nghĩa đế quốc dùng chiến tranh hạt nhân để hủy diệt, bảo vệ nền hòa bình thế giới.

SỰ RA ĐỜI CÁC TỔ CHỨC CỘNG SẢN TIỀN THÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NHƯ THẾ NÀO?

 

Phong trào công nhân cuối những năm 20 của thế kỷ XIX phát triển không đồng đều, mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo. Phong trào “vô sản hóa” cũng được phát sinh từ đây và đã góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Từ thực tiễn sinh động đó, những người lãnh đạo trong Kỳ bộ - Bắc Kỳ những học trò xuất sắc của Nguyễn ái Quốc, đã nắm bắt được sự đòi hỏi khách quan của phong trào, nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng cộng sản thay cho Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên để tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên. 

Tháng 3 năm 1929, các đồng chí Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân, họp tại ngôi nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) đã quyết định lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên làm đầu tàu cho Cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Ở Việt Nam. Từ đây, hình thành nên các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.

Đông Dương Cộng sản đảng, được thành lập vào đêm Ngày 17 tháng 6 năm 1929, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), do 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp. Hội nghị đã thông qua “tuyên ngôn”, “điều lệ đảng”. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản đảng xác định rõ: “Đông Dương Cộng sản đảng là Đảng cách mạng, đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức thợ thuyền) ở Đông Dương. Đảng Cộng sản là đảng bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào giác ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản”. Đồng thời, lấy cờ búa liềm làm cờ của Đảng; thành lập cơ quan tuyên truyền, ra báo “búa liềm” và tạp chí công hội đỏ; thành lập Ban Chấp hành Trung Ương lâm thời, gồm 7 đồng chí của chi bộ cộng sản.

An Nam Cộng sản đảng, được thành lập vào tháng 7 năm 1929. Cùng với công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng đã cử người vào Trung Kỳ và Nam Kỳ tuyên truyền và tổ chức các cơ sở Đảng Ở các địa phương đó. Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng sản đảng, xuất bản “Báo Đỏ” ở Hương Cảng - Trung Quốc để tuyên truyền về trong nước. Tháng 11 năm 1929 An Nam cộng sản Đảng đã họp đại hội thông qua đường lối chính trị, bầu Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.

Đông Dương cộng sản liên đoàn, được thành lập vào tháng 9 năm 1929, do các đại biểu cấp tiến của Tân Việt đã họp ra “Tuyên đạt” tại Sài Gòn. Tuy nhiên, đến cuối tháng 12 năm 1929 mới được hoàn tất, tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Hội nghị thành lập gồm các đại biểu: Nguyễn Xuân Thanh, Nguyễn Khoa Văn (đại biểu Nam Kỳ), Trần Hữu Chương, Lê Tiềm, Ngô Đức Đệ, Nguyễn Văn Tốn, Trần Đại Quả (đại biểu Trung Kỳ), Ngô Đình Mẫn (đại biểu Bắc Kỳ)... Hội nghị thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng: Không tán thành gia nhập Đông Dương Cộng sản Đảng theo những điều kiện cho Đông Dương Cộng sản Đảng đưa ra. Bỏ tên gọi “Tân Việt”, đặt tên mới là “Đông Dương Cộng sản liên đoàn”, đây là tên gọi tạm thời trước khi các tổ chức cộng sản thống nhất. Tập trung củng cố đảng, đưa ra khỏi đảng những đảng viên yếu kém, bầu Ban lãnh đạo chung.

Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta. Sự ra đời đó đã khẳng định bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam; chứng tỏ hệ tư tưởng vô sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc dân chủ ở nước ta. Với sự ra đời các tổ chức cộng sản đó là điều kiện rất quan trọng để đi đến thành lập một chính đảng cách mạng ở nước ta vào đầu năm 1930 là Đảng Cộng sản Việt Nam.

ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1929 LÀ GÌ?

 

Giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1925

Sau Chiến tranh thế giới Thứ nhất kết thúc, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi năm 1917 đã tác động thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân thế giới nói chung và phong trào công nhân Việt Nam nói riêng có bước phát triển mới với những đặc điểm nổi bật là:

 - Phong trào công nhân thời kỳ này nổ ra còn lẻ tẻ và mang nặng tính tự phát, chủ yếu đòi quyền lợi về kinh tế;

- Giữa các phong trào đấu tranh chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau;

- Phong trào đã mang những nét mới mà trước đây chưa có đó là sự trưởng thành lớn mạnh về ý thức chính trị, chuyển từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác. Sự xuất hiện của tổ chức Công hội Đỏ năm 1920 là một bước đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân, vì đây là tổ chức hoạt động bí mật để lãnh đạo phong trào công nhân đấu tranh; phong trào công nhân Ba Son tháng 8 năm 1925 đã đánh dấu bước phát triển mới của phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác.

Phong trào công nhân Việt Nam đã có tinh thần quốc tế cao cả, không chỉ đấu tranh đòi quyền lợi cho mình mà còn có hành động phối hợp bảo vệ lợi ích của công nhân quốc tế. Điều đó chứng tỏ ý thức chính trị của công nhân đã được nâng lên một bước, chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng được truyền bá sâu rộng ở Việt Nam thông qua hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Giai đoạn từ năm 1926 đến năm 1929

- Phong trào công nhân tăng nhanh về số lượng và phát triển mạnh về chất lượng. Các cuộc đấu tranh của công nhân không đơn thuần là các cuộc đấu tranh về kinh tế mà mang tính chất chính trị sâu sắc. Khẩu hiệu đấu tranh được nâng lên là đòi tăng lương, đòi ngày làm 8 giờ, phản đối đánh đập công nhân...v.v.

- Giữa các phong trào đã có sự liên kết chặt chẽ với nhau giữa nhiều ngành, nhiều địa phương đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức “Công hội đỏ”. Đặc biệt, trong quá trình đấu tranh, “Công hội đỏ” Nam kỳ đã liên lạc với Liên đoàn lao động chống Pháp để kết hợp đấu tranh. Điều đó chứng tỏ rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được truyền bá sâu rộng trong phong trào cách mạng, ý thức giác ngộ của công nhân được nâng cao, phong trào cách mạng mang tính tự giác rõ rệt.

- Sự phát triển của phong trào công nhân trong giai đoạn này là động lực chính thúc đẩy sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam cuối năm 1929, đầu năm 1930. Đó là, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời ở Bắc kỳ; tháng 11 năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng ra đời ở Nam kỳ; đầu năm 1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn ra đời ở miền Trung.