Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể và thực tiễn
phát triển của Việt Nam, phù hợp với quy luật và xu thế phát triển chung của
nhân loại, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
mà trước hết là “đổi mới về tư duy kinh tế”, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế. Công cuộc đổi mới trở thành sản phẩm sáng tạo, trí tuệ của Đảng Cộng sản
Việt Nam, của nhân dân Việt Nam mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn trên con
đường xây dựng CNXH mang bản sắc Việt Nam, của Việt Nam và do nhân dân Việt Nam
thực hiện. Đổi mới đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn rất mới, có những vấn
đề thậm chí trước đây chưa từng có. Đó là sự lựa chọn mang tính lịch sử, là một
quá trình đổi mới sâu sắc cả về phương diện tư duy, nhận thức lý luận, cả về đường
lối lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và công tác chính trị, tư tưởng của Đảng.
Từ một nền kinh tế khép kín, tự cấp tự túc, bị bao
vây, cô lập, cấm vận, Việt Nam đã tiến hành mở cửa, trở thành thành viên của
ASEAN, APEC, WTO và nhiều tổ chức quốc tế khác, tham gia nhiều định chế thương
mại tự do, trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập
ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đồng thời, mở rộng hội nhập ra tất
cả các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội… Từ chỗ chỉ
là thành viên tham gia các định chế quốc tế, Việt Nam đã chủ trương “chủ động
và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”, trở thành “đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Từ chỗ phủ nhận cơ chế thị trường (KTT) trong thời kỳ
trước Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thống nhất nhận thức rằng, KTTT là sản
phẩm của văn minh nhân loại, muốn xây dựng CNXH thành công không thể không phát
triển KTTT định hướng XHCN. Đây cũng chính là mô hình kinh tế tổng quát của Việt
Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng trong tiến trình lãnh đạo công cuộc đổi
mới. KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của KTTT; là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế. Định
hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện nhất quán trên các phương diện của nền
kinh tế - xã hội. Trong mục tiêu phát triển, đó là: lấy con người làm trung
tâm, vì mọi người và do con người, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong phương thức phát triển,
đó là phát triển bền vững, bao trùm và hội nhập. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.
Trong quản lý nền kinh tế, đó là phát huy đầy đủ vai trò chủ thể của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội, mọi người dân được tham gia và mọi người dân
được hưởng lợi; đảm bảo vai trò quản lý nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ trương phát triển kinh tế tư nhân cũng là một quá
trình đổi mới tư duy táo bạo. Vượt qua những tư duy cố hữu, thậm chí có ý kiến
cực đoan muốn xóa bỏ kinh tế tư nhân, Đảng đã xác định kinh tế tư nhân có vị
trí “quan trọng lâu dài”, “bộ phận cấu thành quan trọng” trong nền KTTT định hướng
XHCN. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng đã khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát
rằng, kinh tế tư nhân - “một động lực quan trọng của nền kinh tế”, là bước đột
phá về nhận thức so với giai đoạn trước, khi Việt Nam chỉ coi kinh tế tư nhân
là “một trong những động lực của nền kinh tế”. Những thay đổi nhận thức như vậy
đã lan toả mạnh mẽ trong đời sống xã hội, tạo ra một sức sống mới cho nền kinh
tế.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ
bé, với GDP chỉ 14 tỷ USD và GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 250 USD trong
những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng đói nghèo, chuyển
sang thực hiện và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến năm
2018, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 245 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt
2.580 USD, khoảng cách thu nhập giữa Việt Nam với các nước đã được thu hẹp đáng
kể. Trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm xuống còn 14,8%; tỷ
trọng các khu vực công nghiệp, dịch vụ tăng lên 85,2%. Đặc biệt, tỷ lệ người
nghèo đã giảm mạnh, từ mức trên 60% vào những năm đầu đổi mới xuống dưới mức 7%
hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá có triển vọng
tốt, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới.
Nếu duy trì được đà tăng trưởng như 3 thập niên qua thì đến năm 2045 - kỷ niệm
mốc lịch sử 100 năm Việt Nam độc lập (1945 - 2045), quy mô GDP của Việt Nam ước
sẽ đạt khoảng 2.500 tỷ USD, còn thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 18.000
USD.
Có được những kết quả ấn tượng trên là nhờ Đảng đã định hướng ngày càng rõ mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ chỗ tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và lực lượng lao động có tiền công thấp, Đảng đã chủ trương chuyển sang thực hiện phát triển kinh tế bao trùm và bền vững, tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, hoàn thiện mô hình tăng trưởng đồng bộ trên cả phương diện kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội và kinh tế - sinh thái, thúc đẩy phát triển trên nền tảng đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế.
Nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trả lờiXóa