Hiển thị các bài đăng có nhãn bản chất chủ nghĩa tư bản. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bản chất chủ nghĩa tư bản. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 1 tháng 10, 2018

Một số giải pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay


Một trong những vấn đề bức xúc trong công tác xây dựng đảng hiện nay là tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và đáng lo ngại nhất là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng trên phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, với tinh thần quyết liệt, kịp thời.
Đại hội XI của Đảng nhận định: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”. Đại hội XII chỉ rõ: “... phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao”, “trong khi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội”. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng nêu trên có thể khái quát: do hạn chế về trình độ hiểu biết, năng lực trí tuệ, năng lực thực tiễn. Do sự thoái hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống của từng đảng viên, nhất là những đảng viên có chức, có quyền trong hệ thống chính trị. Do chủ nghĩa cá nhân gây nên mất đoàn kết nội bộ, làm xuất hiện những cá nhân, những nhóm người mâu thuẫn nhau về địa vị, quyền lợi. Nhiệm vụ ngăn chặn và đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong Đảng là nhiệm vụ trọng tâm bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đại hội XII đã xác định rõ quan điểm: “Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng trên phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, với tinh thần quyết liệt, kịp thời, đem lại kết quả cụ thể. Sau đây là một số giải pháp cơ bản:
- Thực hiện tốt các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Đảng
Đảng ta được tổ chức và xây dựng theo những nguyên tắc mang tính khoa học và cách mạng của chính đảng kiểu mới theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong tình hình mới.
- Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đề cập việc đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, góp phần thiết thực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, quản lý.
- Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
Nghiên cứu, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận; tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh tuyên truyền về thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, gắn với thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm và Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07-06-2012, của Ban Bí thư khóa XI về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.
- Nâng cao chất lượng quản lý đảng viên và thực hiện nghiêm minh công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
- Đẩy mạnh việc tự tu dưỡng rèn luyện của cán bộ, đảng viên thiết thực, hiệu quả
Trong cuộc sống thường ngày, mỗi cán bộ, đảng viên phải giải quyết nhiều mối quan hệ xã hội, trong đó mối quan hệ giữa lợi ích của tập thể - lợi ích cá nhân là yếu tố cơ bản tác động chi phối đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức lối sống, nếu mỗi cá nhân thiếu bản lĩnh chính trị, không tự giải quyết hài hòa mối quan hệ này sẽ dễ dàng bị lôi cuốn vào vòng xoáy của tham vọng quyền lực, vun vén lợi ích cá nhân, tham nhũng, lãng phí, bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, mua chuộc làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng.
- Quan tâm đến đời sống và lợi ích chính đáng của cán bộ, đảng viên
Hiện nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên là cán bộ, công chức nhà nước có điều kiện chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình. Do đó, khi đời sống được bảo đảm, quyền lợi vật chất chính đáng được bảo vệ, chính là điều kiện để mỗi người gắn bó với công việc; yên tâm thực hiện nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Bảo đảm thu nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng góp, phù hợp với công sức, trí tuệ của mỗi người đã cống hiến; thực hiện “đẩy mạnh cải cách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng”; công bằng giữa các khu vực, nhất là khu vực hành chính sự nghiệp, với khu vực doanh nghiệp nhà nước là nguyện vọng chính đáng của đảng viên, công chức, viên chức.
Với truyền thống 78 năm của Đảng, chúng ta có quyền tin tưởng rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ lãnh đạo xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh sánh vai các cường quốc 5 châu và thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thứ Tư, 29 tháng 3, 2017

VÌ SAO PHẢI XÓA BỎ CHẾ ĐỘ TƯ HỮU

Chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa trên hai phương diện: một là, sự tha hóa của người công nhân trong sản phẩm lao động của anh ta; và hai là, sự tha hóa của người công nhân “trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất”.
Ở phương diện thứ nhất, biểu hiện của sự tha hóa là, sản phẩm do lao động của người công nhân làm ra không những không thuộc về anh ta, mà còn “đối lập với lao động như một thực thể xa lạ, như một lực lượng không phụ thuộc vào người sản xuất”. “Người công nhân sản xuất càng nhiều của cải, sức mạnh và khối lượng sản phẩm của anh ta càng tăng thì anh ta càng nghèo”. “Người công nhân càng tạo ra nhiều hàng hóa, anh ta lại trở thành một hàng hóa càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm càng tăng thêm giá trị thì thế giới con người càng mất giá trị”(1). Nói chung, anh ta làm ra càng nhiều vật phẩm thì số vật phẩm anh ta có thể chiếm hữu được càng ít và anh ta bị chính sản phẩm do mình làm ra – tư bản – thống trị càng mạnh.
Ở phương diện thứ hai, “sự tha hóa của công nhân trong sản phẩm của anh ta không chỉ có ý nghĩa là lao động của anh ta trở thành một vật phẩm, có được sự tồn tại bên ngoài, mà còn có ý nghĩa là lao động của anh ta tồn tại ở bên ngoài anh ta, không phụ thuộc vào anh ta, xa lạ với anh ta, và lao động ấy trở thành một lực lượng độc lập đối lập với anh ta, có nghĩa là đời sống mà anh ta truyền cho vật phẩm, chống lại anh ta như một đời sống đối địch và xa lạ”(2). Điều đó cũng có nghĩa là, trong lao động, đáng ra người công nhân khẳng định mình thì anh ta lại thấy mình “phủ định mình”, đáng ra người công nhân phải cảm thấy mình sung sướng thì anh ta lại “cảm thấy mình khổ sở”, đáng ra người công nhân “phát huy một cách tự do nghị lực thể chất và tinh thần” của mình thì anh ta lại cảm thấy mình đang “làm kiệt quệ thân thể của mình và phá hoại tinh thần của mình”.
Đến đây, câu hỏi đặt ra là, nếu sản phẩm người công nhân làm ra không thuộc về anh ta thì thuộc về ai? Tại sao trong quá trình lao động, người công nhân “cảm thấy mình bị tách khỏi bản thân mình”, cảm thấy lao động của mình là “lao động cưỡng bức” và chỉ xem lao động là “một phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu khác” chứ không xem lao động là nhu cầu?
Câu trả lời là: sản phẩm do người công nhân làm ra thuộc về địa chủ và nhà tư bản – “những vị thần có đặc quyền và ăn không ngồi rồi và ở đâu cũng đều ở trên công nhân và định pháp luật cho công nhân”(3), bởi họ là những người nắm giữ tư liệu sản xuất. C.Mác gọi những người này là “những người sở hữu”. Còn người công nhân, trong thực tế, chỉ nhận được một phần rất nhỏ – “cái mà không có nó thì tuyệt đối không thể được: chỉ đúng cái cần thiết để người công nhân tồn tại – không phải như một con người mà như một công nhân và không phải để người công nhân duy trì loài người, mà duy trì giai cấp nô lệ – giai cấp công nhân”(4); bởi người công nhân không có sở hữu về tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt xã hội nên phải làm thuê để nhận một khoản tiền công ít ỏi, không tương xứng với lao động của anh ta từ những người sở hữu.
Cũng trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, từ khái niệm lao động bị tha hóa được rút ra trong quá trình phân tích sự tha hóa của người công nhân, C.Mác đã chỉ rõ sở hữu tư nhân với tư cách sản phẩm của lao động bị tha hóa, Ông khẳng định, “một mặt, sở hữu tư nhân là sản phẩm của lao động bị tha hóa, và mặt khác, nó là phương tiện làm cho lao động bị tha hóa, là sự thực hiện sự tha hóa ấy”(5), C.Mác cũng chỉ ra cả “những người sở hữu” cũng bị tha hóa. Song, khác với hoạt động tha hóa ở người công nhân, sự tha hóa của “những người sở hữu” biểu hiện ra là “trạng thái tha hóa”(6). Trạng thái tha hóa này là: “Tư bản sợ tình trạng không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít, cũng như giới tự nhiên sợ chân không. Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. Được bảo đảm 10 phần trăm lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được; được 20 phần trăm thì nó hoạt bát hẳn lên; được 50 phần trăm thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100 phần trăm thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của loài người; được 300 phần trăm thì không còn tội ác nào là nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ”(7).
Tựu trung lại, chế độ tư hữu khiến cho con người trở nên xa lạ với chính mình và làm biến mất “tồn tại có tính chất người” của con người. Chế độ tư hữu khiến cho giá trị con người bị hạ thấp xuống chỉ bằng máy móc, khiến cho người công nhân “cảm thấy mình chỉ còn là con vật” trong những chức năng con người của anh ta, khiến cho “cái vốn có của súc vật trở thành chức phận của con người, còn cái có tính người thì biến thành cái vốn có của súc vật”(8). Do đó, “xóa bỏ chế độ tư hữu” là cần thiết và tất yếu. “Xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu” là một giải pháp để giải phóng con người, mà trước hết là những người công nhân không có sở hữu, khỏi ách thống trị của chế độ tư hữu và trả lại cho con người một đời sống đích thực thay vì một “đời sống bị tha hóa”.

Song, theo quan niệm của C.Mác, cần lưu ý rằng, chủ nghĩa cộng sản không xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà cụ thể là, xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” – “biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”(9). Theo nghĩa đó, lý luận về sự xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” của chủ nghĩa cộng sản có thể được “tóm tắt” thành một luận điểm duy nhất là: “xóa bỏ chế độ tư hữu”. 
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.42. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.128.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.129-130.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.79.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.79.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.142.
(6) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.145.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,  t.23, tr.1056.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42. tr.133.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t. 4, tr.615.