1.
Về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam
Nhận
thức về xây
dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đại hội XII khẳng định mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn sự gắn kết trong mục
tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học. Văn
hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Có thể nói, tư duy của Đảng ta
về lĩnh vực văn hóa, con người thể hiện
trong văn kiện Đại hội XII có bước tiến đặc biệt quan trọng. Văn hóa, con người
được gắn kết rất chặt chẽ và sát hợp với đời sống hiện thực. Khẳng định con người là chủ thể sáng tạo, truyền bá, thụ hưởng văn hóa, là trung tâm
của chiến lược phát triển. Xây dựng con người có nhân cách tốt, lối sống đẹp là trọng tâm, cốt lõi của phát triển văn hóa;
mọi hoạt động văn hóa đều phải hướng tái xây dựng, phát triển con người. Con người vừa là mục tiêu, cái “mang
vác” văn hóa vừa là động lực quyết định để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng,
phát triển văn hóa, con người. Diện mạo nền văn hoá quốc gia - dân tộc Việt Nam
như thế nào đều hiện hình và tuỳ thuộc ở chất lượng con người.
Về xác định hệ giá trị chuẩn mực của con
người Việt Nam trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người. Để thực hiện
mục tiêu chiến lược xây dựng văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện
hiện nay, Đại hội XII chỉ ra, phải “đúc kết… hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” trên các vấn đề cốt lõi:
“nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm
xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Hội tụ đủ 9 nội dung: nhân
cách, đạo
đức, trí
tuệ, năng
lực sáng tạo, thể
chất, tâm
hồn, trách
nhiệm xã hội, nghĩa
vụ công dân, ý
thức tuân thủ pháp luật mà
Đại hội XII nêu lên về chuẩn mực con người Việt Nam vừa phản ánh sự kế thừa cốt cách con người Việt Nam
truyền thống, vừa là mục tiêu vươn tới, phải
không ngừng hoàn thiện, khẳng định sự phát triển bền vững của văn hóa, con
người Việt Nam.
2. Về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nét mới
trong Văn kiện Đại hội XII là: Đại đoàn kết dân tộc là “động lực và nguồn lực
to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; “Tôn trọng
những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc”; bên
cạnh đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa khoan dung, nêu rõ phải
đề cao “tinh thần yêu nước” để tập hợp, đoàn kết; xác định rõ đối tượng của tập
hợp, đoàn kết đó là: tập hợp, đoàn kết “mọi người Việt Nam ở trong và ngoài
nước”; để tạo “sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, phải “tăng
cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”.
Điểm nhấn của Văn
kiện XII khẳng định: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc phải luôn tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích
chung của quốc gia - dân tộc. Quan điểm lần này của Đảng thể hiện tại
Đại hội XII là sự kế tiếp, nhưng có sự bổ sung mới so với quan điểm trước đó của
Đảng, thể hiện ở các khía cạnh: trong xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc phải thừa nhận, chấp nhận, tôn trọng những điểm khác biệt trong
cộng đồng xã hội, nhất là sự khác biệt về văn hóa của vùng, miền, dân tộc. Đảng
nêu lên quan điểm tôn trọng sự khác biệt, nhưng không chấp nhận sự khác biệt đi
ngược lại đạo lý nhân văn con người, giá trị truyền thống văn hóa, trái với lợi
ích tối cao của quốc gia - dân tộc.
Về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng
tiếp tục khẳng định những vấn đề về bản chất, phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu,
nguyên tắc, những nội dung, biện pháp, cơ chế, quy chế cụ thể để phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Kế thừa những nội dung của Đại hội
XI, Đại hội XII có những điểm mới về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân như sau:
Thứ nhất, để dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự được thực hiện trên
thực tế thì “dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội”. Đây là sự phát triển tư duy của Đảng ta một cách toàn
diện về phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII còn nhấn
mạnh khi xây dựng các quyết sách thì cần “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả
các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống
của nhân dân”2.
Thứ hai, Đại hội XII nhấn mạnh cần tập trung thể chế hoá và nâng
cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Điểm mới của Đại hội XII là vấn đề thực hiện quyền con người và đề cao đạo đức
xã hội. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về các văn kiện Đại hội
XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư trình bày đã nêu rõ yêu cầu: “bảo vệ quyền
con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013...
phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công
dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội”.
Thứ ba, Đại hội XII nhấn mạnh nhiệm vụ cần thể chế hóa và thực
hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ tư, so với Đại hội XI, điểm mới trong Đại hội XII là đã tìm
được điểm mấu chốt trên phương diện phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Báo cáo chính trị Đại hội XII xác định: “Để thực hiện dân chủ trong xã
hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy
đầy đủ dân chủ trong xã hội".
Thứ năm, Đại hội XII nhấn mạnh: “Đẩy mạnh dân
chủ hoá xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng
tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quy
chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị
- xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quy định về giám sát đảng
viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và các quy định, quy
chế khác”.
3.Quan điểm
của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo
Trong Văn kiện
trình Đại hội XII của Đảng, vấn đề tôn giáo tiếp tục được khẳng định theo hướng
phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo để thực hiện
đoàn kết lương - giáo. Qua đó cho thấy, Đảng, Nhà nước ta rất coi trọng việc
giải quyết vấn đề tôn giáo, củng cố sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đó là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ mới. Đồng bào tôn giáo (chiếm khoảng
1/4 dân số nước ta) có vị trí hết sức quan trọng trong khối đại đoàn kết dân
tộc.
Các nội dung trong
Văn kiện Đại hội XII về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo cho thấy, Đảng ta
tiếp tục khẳng định những quan điểm từng được nêu trong các kỳ đại hội trước,
đồng thời có sự kế thừa, phát triển, bổ sung một số điểm cho phù hợp với tình
hình mới: Thứ
nhất, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo. Thứ
hai, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
Thứ ba, quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận,
theo quy định của pháp luật. Thứ tư, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết
dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.
4. Về xây
dựng hệ thống chính trị
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Về xây dựng hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra những tồn tại,
hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian qua, đồng thời xác định
những nguyên nhân cốt lõi nhất của hạn chế, khuyết điểm. Đại hội XII của Đảng nêu rõ hơn những nhiệm vụ, giải pháp nhằm xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
trong thời gian tới. Đây là những điểm mới nổi bật so với các văn kiện trước
đây của Đảng, bao gồm:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ
chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Thứ hai, Báo cáo chính trị Đại hội XII chỉ rõ
đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp
luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã
hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước.
Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức
xã hội. Thứ ba, xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là
cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất;
xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Thứ tư, thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu
một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện. Mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh
cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm
soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan hành chính.
Về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Kế thừa 8 nhóm nhiệm vụ, giải
pháp của Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII đã xác định 10 nhóm nhiệm vụ, giải
pháp.
5. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Điểm mới so với
Văn kiện Đại hội XI, trong Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu của quốc
phòng, an ninh có hai điểm mới là tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của
cộng đồng quốc tế. Đây chính là nội dung rất quan trọng khi bối cảnh thế giới
và khu vực đang diễn biến phức tạp như hiện nay và chúng ta hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Cụm từ “kiên quyết, kiên trì” vừa thể hiện quyết
tâm chiến lược, trước sau như một, cả trong những năm qua và trong giai đoạn
tới của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, việc xác định rõ tính chất lâu dài,
phức tạp của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc.
6. Về quản lý phát triển xã hội, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội
Văn kiện Đại hội
XII chỉ rõ để tăng cường quản lý phát triển xã hội gắn với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội trong điều kiện hiện nay cần phải chú trọng giải quyết vấn đề
phát triển nguồn nhân lực, tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người
lao động, trong đó Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị phải quan tâm “Tạo cơ
hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu
nhập công bằng đủ điều kiện sống và tái sản xuất lao động”.
Nét mới trong quan
điểm Đại hội XII là xác định rõ giữa phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội có quan hệ biện chứng, hài hòa với nhau theo yêu cầu
“Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và
điều kiện phát triển toàn diện”. Tăng trưởng kinh tế, phát triển xã
hội là điều kiện, tiền đề thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và ngược lại thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực thúc đẩy bảo đảm tăng trưởng kinh tế
nhanh, phát triển xã hội bền vững, bảo đảm thực hiện an sinh xã hội...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét