Khái niệm
“quyền dân tộc thiểu số” được chính thức ghi nhận trong hai Công ước quốc tế là
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người của LHQ (UDHR) năm 1948: "Mọi người
sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và tự do không có bất kỳ sự phân biệt đối
xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân
tộc hoặc xã hội" (Điều 2) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR) năm 1966 ghi: "Tại những nước có nhiều nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo
và ngôn ngữ cùng chung sống, thì những cá nhân thuộc các dân tộc, tôn giáo,
ngôn ngữ và các thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng đồng mình,
không thể bị tước bỏ quyền được thụ hưởng nền văn hóa riêng, quyền được thể hiện
và thực hành tôn giáo riêng hoặc quyền được sử dụng tiếng nói riêng của họ" (Điều
3). Đây là hai văn kiện pháp lý quốc tế nền tảng, ghi nhận các quyền pháp lý cơ
bản của con người về dân sự, chính trị mà quyền dân tộc thiểu số được coi là
quyền cơ bản trong nhóm các quyền dân sự, chính trị đó. Điều đó có nghĩa là người
dân tộc thiểu số (DTTS) có đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, KT-XH,
văn hóa như những người thuộc dân tộc đa số trong xã hội, hoàn toàn bình đẳng
và không có sự phân biệt đối xử.
Quyền dân tộc
tự quyết và quyền của DTTS tuy có mối quan hệ nhưng nội hàm của chúng hoàn toàn
khác nhau. Đối với quyền của DTTS, chủ thể hưởng thụ quyền là các DTTS trong một
quốc gia. Quốc gia đó có trách nhiệm bảo đảm cho các DTTS trong quốc gia mình
được hưởng thụ quyền dựa trên điều kiện đặc thù của mình. Còn chủ thể quyền
dân tộc tự quyết là quốc gia-dân tộc chứ không phải là một DTTS trong quốc
gia - dân tộc đó. Pháp luật quốc tế không cho phép một DTTS ở một quốc gia được
ly khai, được thành lập một quốc gia độc lập với quốc gia được quốc tế công nhận
mà họ là công dân trong quốc gia đó. Trong mỗi quốc gia có nhiều dân tộc khác
nhau cùng sinh sống, tất cả các dân tộc này cùng hợp thành một dân tộc chung nhất,
đồng nghĩa với nhân dân và mang tên gọi của đất nước mình.
Việt Nam là một
quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, đoàn kết, hòa thuận
trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán mục tiêu bảo đảm quyền con
người, trong đó có quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam theo luật pháp
quốc tế. Điều 5, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là
quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam;
các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm
cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện
chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực,
cùng phát triển với đất nước"; đồng thời nhấn mạnh: "Tổ quốc Việt Nam là thiêng
liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị
nghiêm trị" (Điều 11). Nội dung này đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật
khác, như: Luật Quốc tịch năm 2008; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tố tụng
hành chính 2015, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) năm 2015... Ở Việt Nam, chỉ có khái
niệm quyền con người, quyền công dân; đó là quyền của tất cả nhân dân Việt Nam,
không phân biệt họ là DTTS hay đa số. Quyền con người thuộc mọi dân tộc thống
nhất giữa quyền cá nhân và quyền tập thể cộng đồng dân tộc được đặt chung
trong quyền của quốc gia - dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét