Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đất nước ta
chìm đắm trong “đêm trường nô lệ” dưới ách thống trị, áp bức, bóc lột tàn bạo của
chế độ thực dân - phong kiến. Nhiều phong trào chống thực dân Pháp theo khuynh
hướng phong kiến, tiểu tư sản đã diễn ra rộng khắp, liên tục, lôi cuốn đông đảo
quần chúng tham gia, tiến hành bằng nhiều con đường, từ bạo động đến cải lương,
nhưng cuối cùng đều thất bại hoặc bị dìm trong biển máu. Phong trào yêu nước, đấu
tranh giành độc lập dân tộc lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước
và giai cấp lãnh đạo. Chính trong bối cảnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với lòng
yêu nước, thương dân sâu sắc, sau nhiều năm bôn ba đã đến được với ánh sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường giải phóng dân tộc: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Với
trí tuệ thiên tài, nhãn quan chính trị nhạy bén, Người ra sức vận động, xúc tiến
và chủ trì hợp nhất ba tổ chức cộng sản (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng
sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam, sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Trong Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo được Hội nghị thành
lập Đảng thông qua đã chỉ rõ: chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản; đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
phong kiến; làm cho nước ta được độc lập; giải phóng công nhân và nông dân
thoát khỏi ách tư bản; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; đem lại mọi quyền lợi
tự do cho nhân dân. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường
lối cách mạng đúng đắn đã mở ra trang mới cho lịch sử dân tộc, chấm dứt khủng
hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước của các phong trào yêu nước Việt Nam. Ngay
sau khi thành lập, Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình lực lượng quần
chúng đông đảo, rộng rãi thuộc tất cả các giai tầng xã hội tổ chức các cao trào
cách mạng (1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945) đấu tranh chống thực dân Pháp
và phong kiến tay sai, khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình, thực sự trở
thành người lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn phong phú và khắc nghiệt hơn 90 năm qua đã
khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện
đã thực hiện xuất sắc sứ mệnh của mình, hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng
trong từng thời kỳ. Cũng vì thế, để tôn vinh và ghi nhận công lao to lớn của Đảng
đối với dân tộc, Nhân dân ta đã gọi Đảng bằng một cái tên rất mực giản dị, gần
gũi, cao quý: Đảng ta. Nhân dân tự hào vì Đảng quang vinh và Đảng cũng luôn
vinh dự, tự hào là Đảng cách mạng của dân tộc Việt Nam anh hùng, từ đó ý thức
rõ trách nhiệm chính trị trước nhân dân và dân tộc. Cái điều như một lẽ tự
nhiên ấy đã hình thành nên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, ý Đảng
- lòng dân luôn hòa quyện thống nhất, tạo nên sức mạnh nội sinh vô cùng to lớn
để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh, đồng hành cùng dân tộc, lập nên
những kỳ tích vẻ vang. Thực tiễn phong phú của Cách mạng Việt Nam trước đây
cũng như hiện nay khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi.
Đó là thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, đập tan ách thống trị của thực dân - phong kiến, giành chính quyền về tay
nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á. Thắng lợi đó có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với cách mạng Việt Nam,
là bước ngoặt trong lịch sử dân tộc. Nó khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn,
vai trò quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác xít mới 15 tuổi với
05 nghìn đảng viên đã lãnh đạo nhân dân tiến hành thành công cuộc cách mạng vĩ
đại, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, đồng thời
có ý nghĩa quốc tế to lớn, góp phần cổ vũ, động viên, thúc đẩy phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhất
là ở các nước thuộc địa.
Đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù
xâm lược và bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc. Trong 09 năm chống thực dân
Pháp, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo:
“Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là chính”, kháng chiến đi đôi với
kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua đó, làm chuyển
hoá thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến
lên giành thắng lợi hoàn toàn bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève lập lại hòa
bình ở ba nước Đông Dương. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đánh dấu bước phát triển vượt bậc của Cách mạng Việt Nam, tạo sức mạnh và tiền
đề thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này; đồng thời, gióng
lên hồi chuông báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Sau năm 1954, đất
nước tạm chia hai miền Nam - Bắc. Đảng ta nhận định, đánh giá đúng tình hình thế
giới, trong nước, đề ra đường lối đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng ở
hai miền: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối chính trị, quân sự
đúng đắn, phương pháp cách mạng phù hợp, kiên quyết thực hiện tư tưởng chiến lược
tiến công, Đảng đã phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp cả nước, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế để đánh
bại các chiến lược chiến tranh, các bước leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ,
giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi quyết định bằng cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng
dân tộc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới
trên đất nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mở ra thời kỳ
mới trong lịch sử dân tộc - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Thắng lợi đó một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, tài
tình, sáng suốt của Đảng ta. Sau ngày thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quân và dân ta thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến
hành thắng lợi chiến tranh bảo vệ biên giới và làm tròn nhiệm vụ quốc tế cao cả
giúp nước bạn Lào, Campuchia, tham gia có trách nhiệm lực lượng gìn giữ hòa
bình Liên hợp quốc.
Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất
nước chồng chất khó khăn, Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khởi xướng và lãnh đạo đổi mới
toàn diện đất nước (từ Đại hội VI - 1986), trước hết là đổi mới tư duy lý luận,
trọng tâm là đổi mới kinh tế. Từ đây, đất nước dần vượt qua khó khăn, thoát ra
khỏi khủng hoảng và tình trạng kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung
bình, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế; đời sống nhân
dân đã chuyển biến tích cực; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh
được tăng cường; văn hóa có bước phát triển và là nền tảng tinh thần của xã hội;
đối ngoại mở rộng, vị thế, uy tín đất nước ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế. Đặc biệt, giữa lúc cả thế giới khủng hoảng vì đại dịch Covid-19 hoành
hành, với quan điểm “chống dịch như chống giặc” và phương châm: sức khỏe, tính
mạng người dân là trên hết, sẵn sàng hy sinh một phần tăng trưởng của nền kinh
tế, Đảng đã huy động cả hệ thống chính trị và mọi nguồn lực xã hội, tập trung
chặn đứng đà lây lan của dịch bệnh, đảm bảo an toàn cho mọi người không kể tuổi
tác, thành phần, quốc tịch. Đây thực sự là một kỳ tích, là niềm mơ ước của nhiều
nước trên thế giới trong đợt phòng, chống đại dịch này.
Đã hơn 90 năm trôi qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt
Nam được thành lập, đó là khoảng thời gian không dài so với lịch sử dân tộc,
nhưng đủ dài với những thành tựu đạt được đã nêu ở trên, đủ cơ sở để khẳng định
vai trò, tầm vóc vĩ đại của Đảng ta. Tất nhiên, trong quá trình đồng hành cùng
dân tộc, thực hiện sứ mệnh cao cả của mình Đảng không tránh khỏi những sai lầm,
khuyết điểm, thậm chí có một số sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng. Nhưng điều
quan trọng ở chỗ, Đảng ta không khi nào bảo thủ, né tránh, mà trái lại luôn
nhìn thẳng vào sự thật đó và dám thừa nhận, chịu trách nhiệm trước nhân dân để
nghiêm túc sửa chữa, khắc phục. Đó là dũng khí, bản chất của một Đảng cách mạng,
vì nước, vì dân. Cũng chính vì thế, nhân dân luôn một lòng tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời, cũng là minh chứng
rõ ràng nhất, thuyết phục nhất phản bác mọi luận điệu chống phá của các thế lực
thù địch và phản động nhằm vào Đảng. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc đang đứng trước thuận lợi, thời cơ lớn, nhưng cũng có không ít khó khăn,
thách thức đan xen. Với sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, tin tưởng rằng chúng ta sẽ tận dụng tốt thời cơ, vượt qua thách thức, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp cao cả đó, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, đưa nước ta vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, góp phần
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và
trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trả lờiXóaHơn 90 năm trôi qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu, đó là cơ sở để khẳng định vai trò, tầm vóc vĩ đại của Đảng ta.
Trả lờiXóa