Khu vực bỏ phiếu là phạm vi địa lý hành
chính có số dân nhất định. Việc chia khu vực bỏ phiếu mang ý nghĩa kỹ thuật, nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình. Chính vì vậy,
khu vực bỏ phiếu có phạm vi hành chính nhỏ hơn đơn vị bầu cử. Thông thường, các
khu vực bỏ phiếu được thành lập theo các đơn vị hành chính cơ sở như xã, phường
hoặc thôn, tổ dân phố, khu phố (cá biệt cũng có một số trường hợp đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ có duy nhất 01 khu vực bỏ phiếu).
Theo quy định tại Điều 11 của Luật Bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân thì mỗi đơn vị bầu cử đại biểu
Quốc hội, đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân chia thành các khu vực bỏ
phiếu. Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu vực bỏ phiếu
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ 300 cử tri đến
4.000 cử tri. Ở miền núi, vùng cao, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung
thì dù chưa có đủ 300 cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ phiếu. Bệnh viện,
nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người
cao tuổi có từ 50 cử tri trở lên; đơn vị vũ trang nhân dân; cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, trại tạm giam có thể thành lập khu vực bỏ phiếu
riêng.
Việc xác định đơn vị vũ trang nhân dân là
khu vực bỏ phiếu riêng do Ban Chỉ huy đơn vị quyết định. Việc xác định các khu
vực bỏ phiếu còn lại do Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định và được Ủy ban nhân
dân cấp huyện phê chuẩn. Đối với những huyện không có đơn vị hành chính xã, thị
trấn thì việc xác định khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân huyện quyết định.
Số cử tri làm căn cứ để xác định thành lập
khu vực bỏ phiếu là số lượng cử tri được xác định một cách tương đối tại thời
điểm thành lập, phê chuẩn việc thành lập khu vực bỏ phiếu đó. Trên cơ sở các
khu vực bỏ phiếu đã được xác định, Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành việc lập và
công bố danh sách cử tri. Sau khi danh sách cử tri đã được công bố, nếu có cử
tri ở nơi khác chuyển đến và đăng ký bỏ phiếu tại địa phương thì Ủy ban nhân
dân bổ sung tên cử tri vào danh sách cử tri và số cử tri này được tính vào tổng
số cử tri của khu vực bỏ phiếu đó khi lập biên bản kết quả kiểm phiếu; trường hợp
cử tri bị xóa tên trong danh sách cử tri, cử tri đã được chứng nhận đi bỏ phiếu
ở nơi khác thì không được tính vào tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóaPhải thực hiện nghiêm các quy định bầu cử
Trả lờiXóa