Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức được Đảng Cộng sản Việt
Nam cụ thể hóa thành những chủ trương, đường lối trong những giai đoạn khác
nhau.
Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã
thông qua Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng, đây là những bản
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam và thể hiện rõ nhất tư tưởng của
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, về quy tụ trí thức. Sách lược vắn tắt của
Đảng đã ghi rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, Thanh Niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối
với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.
Trước Đại hội II của Đảng năm 1951, mặc dù quan niệm về
trí thức đã có sự thay đổi căn bản, nhất là từ khi Nguyễn Ái Quốc về nước và
thành lập Mặt trận Việt Minh với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc rộng rãi được
ghi rõ trong Chương trình của Việt Minh; thế nhưng, để thay đổi một nhận thức
đã ăn sâu, bám rễ trong nhiều đảng viên không phải dễ dàng. Có lẽ vì vậy mà trước
Đại hội II, Đảng ta vẫn xếp thợ thuyền và nông dân là hai lực lượng chính của
cách mạng Đông Dương. Những khúc mắc, xung đột giữa các cán bộ là trí thức và
các nhà cách mạng xuất thân từ giới thợ thuyền đã có lúc đến mức gay gắt. Có lẽ
vì vậy mà năm 1947, mặc dù trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở thời
kỳ gay go quyết liệt nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm nổi tiếng Sửa
đổi lối làm việc để chấn chỉnh tư tưởng, nhận thức lệch lạc, nhất là trong vấn
đề trí thức, trong đó có đoạn: “rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta phải thật
thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài
năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Chúng ta phải tẩy sạch
các bệnh kiêu ngạo, bệnh hẹp hòi, bệnh bao biện”. Đến Đại hội II của Đảng, vấn
đề trí thức dần dần được gỡ ra, khi xác định trí thức là: “bạn đồng minh có thể
tin cậy”.
Sau đó, quan điểm của Đảng về trí thức đã dần dần thay
đổi theo hướng đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò của trí thức qua Đại hội III
(năm 1960), Đại hội IV (năm 1976), Đại hội V (năm 1982). Điều này cũng có cơ sở
thực tế là qua thời gian, đội ngũ trí thức được đào tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã từng bước trưởng thành, cả về chất và lượng, cả về tư tưởng chính trị. Đại hội
VI của Đảng (năm 1986) mở ra thời kỳ đổi mới đất nước toàn diện, vì vậy, vấn đề
trí thức đã dần dần được nhìn nhận sáng tỏ hơn. Đại hội định ra đường lối đổi mới
toàn diện, thì vấn đề trí thức được thực sự mở ra với những điểm sáng mới. Văn
kiện Đại hội VI của Đảng xác định: “Phá bỏ những quan niệm hẹp hòi, không thấy
tầng lớp trí thức ngày nay là những người lao động xã hội chủ nghĩa, được Đảng
giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân và nông dân”.
Đại hội VI cũng chính thức cam kết bảo đảm quyền tự do sáng tạo của trí thức:
“Điều quan trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực
và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển”.
Sự nhìn nhận với tư cách là Đảng lãnh đạo về vấn đề
trí thức Việt Nam đã được thể hiện với tư duy mới trong “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh năm 1991): “Đào tạo,
bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí
tuệ và nhân tài cho đất nước”. Năm 2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06-8-2008, “Về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, trong đó khẳng
định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng
trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm
trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức
là đầu tư cho phát triển bền vững”.
Cùng với những quan điểm, chủ trương, chính sách tạo
điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức trong nước, Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách để thu hút trí thức người Việt Nam ở nước
ngoài. Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26-3-2004, của Bộ Chính trị về “Công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài” quy định: “Có hình thức thích hợp tổ chức thu
thập ý kiến của đồng bào ở nước ngoài trước khi ban hành các văn bản pháp quy,
chính sách có liên quan nhiều tới người Việt Nam ở nước ngoài. Hoàn chỉnh và
xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng
góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ
đãi ngộ thỏa đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước
ngoài có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành,
chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn
hóa, nghệ thuật của nước nhà. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách tạo thuận lợi
và khuyến khích các ngành, các trung tâm nghiên cứu khoa học - công nghệ, văn
hóa nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, y tế, thể dục thể thao, các cơ sở sản xuất,
dịch vụ... ở trong nước mở rộng hợp tác, thu hút, sử dụng chuyên gia, trí thức
người Việt Nam ở nước ngoài tham gia công việc ở trong nước, làm việc cho các
chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương của Việt Nam với nước
ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho người Việt Nam và tư
vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài”.
Sau khi tổng kết thực hiện Nghị quyết này, ngày
19-5-2015, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW
“Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X
về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới” tiếp tục
khẳng định nhất quán quan điểm tập hợp, tạo điều kiện thuận lợi để trí thức người
Việt Nam ở nước ngoài cùng đóng góp tài trí xây dựng đất nước. Chỉ thị nêu rõ:
“Thường xuyên tổ chức cho người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp ý kiến và tham
gia vào các sự kiện chính trị - xã hội lớn của đất nước. Rà soát, bổ sung hoàn
thiện cơ chế, chính sách và pháp luật tạo hành lang pháp lý thuận lợi để người
Việt Nam ở nước ngoài về đầu tư, sản xuất kinh doanh, góp phần vào thu hút đầu
tư, chuyển giao công nghệ từ các nước vào Việt Nam và thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ
đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Có chính sách thu hút, sử dụng chuyên gia,
trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thiết yếu, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đội ngũ trí thức rất quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước; do đó phải xây dựng đội ngũ trí thức hùng mạnh và có chính sách thu hút nhân tài để phát triển đất nước
Trả lờiXóaBạn nói rất chính xác
Xóa