Sinh ra và lớn lên khi đất nước Việt Nam đắm chìm
trong đêm trường nô lệ, nhân dân bị áp bức, bóc lột và được hưởng chút quyền tự
do dân chủ nào, với tấm lòng yêu nước, thương dân và nhiệt huyết của tuổi trẻ,
Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường
cứu nước. Đi qua nhiều châu lục, vừa kiếm sống, vừa khảo nghiệm thực tiễn và lựa
chọn con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với
con đường cứu nước trong thời đại cách mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo những
nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp
công nhân và dân tộc Việt Nam; soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp nhu cầu của lịch sử và hợp
quy luật của thời đại; đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên - những người cách mạng
luôn thấm nhuần "tư cách người cách mệnh" gương mẫu đi đầu; sáng lập
Mặt trận Việt Minh - nơi tập hợp, đoàn kết tất cả những người Việt Nam yêu nước
không phân biệt giai tầng, tôn giáo, trẻ già, nam nữ; sáng lập lực lượng vũ
trang nhân dân - công cụ bạo lực để đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền cách
mạng,v.v.. và cùng Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng
lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Là kết quả của 15 năm (1930-1945) Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng tiên
phong lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, thắng lợi của cuộc cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đã “giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ
quốc ta, cho nhân dân ta”, đưa nhân dân ta từ thân phận một người nô lệ trở
thành công dân một nước độc lập. Trân trọng giá trị thiêng liêng của độc lập, tự
do vừa giành được, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời tuyên bố trước
toàn thể quốc dân và thế giới: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Hoài bão lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nước Việt
Nam độc lập và thống nhất, nhưng phải là độc lập, tự do hoàn toàn, thống nhất
thực sự. Vì vậy, khi thực dân Pháp bội ước quay trở lại xâm lược Nam Bộ, với
tinh thần và ý chí “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ” cùng
niềm tin tất thắng về một nước Việt Nam "non sông liền một dải", Người
không chỉ khẳng định: Miền Nam là máu của máu, là thịt của thịt Việt Nam, “đồng
bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý
đó không bao giờ thay đổi!" mà còn cùng toàn dân kiên trì tiến hành kháng
chiến chống thực dân Pháp. Sau 9 năm kháng chiến gian lao mà anh dũng, chiến thắng
Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" đã kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình
ở Đông Dương đã được ký kết.
Tuy nhiên, cố tình phá bỏ Hiệp định Giơnevơ, ngang
nhiên chà đạp nguyện vọng thống nhất nước nhà của nhân dân Việt Nam, đế quốc Mỹ
và bè lũ tay sai đã biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và thực thi
những đạo luật hà khắc, thi hành chính sách “tố cộng, diệt cộng”, đàn áp dã man
những người yêu nước. Miền Nam đã trở thành “địa ngục trần gian”, nơi đầu rơi,
máu chảy…
Không cam tâm để một nửa khúc ruột miền Nam phải tiếp
tục sống đọa đầy dưới ách thống trị tàn bạo của kẻ thù, khát vọng giải phóng miền
Nam “Thành đồng Tổ quốc”, phải “đi trước về sau” để thống nhất Tổ quốc được Người
khẳng định: “Dân tộc ta là một, nước Việt Nam là một. Nhân dân ta nhất định sẽ
vượt qua mọi khó khăn và thực hiện kỳ được "thống nhất đất nước, Nam Bắc một
nhà”".
Đồng thời, thấu hiểu sâu sắc rằng, đoàn kết tạo nên sức mạnh, đại đoàn kết toàn
dân tộc sẽ nhân nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc trên hành trình đi đến
tương lai, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ truyền đến đồng bào và chiến sĩ cả nước
niềm tin Bắc - Nam thống nhất mà Người còn bắt nhịp bài ca Kết đoàn; đoàn kết tập
hợp mọi lực lượng, mọi giai tầng: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật
thà hợp tác với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo phe phái nào” để
cùng đấu tranh cho hòa bình, độc lập và thống nhất nước nhà.
Nhân dân Việt Nam chiến đấu vì chính nghĩa, chiến đấu
vì phẩm giá con người, vì một khát vọng của thời đại - đó là độc lập, tự do và
hạnh phúc của con người trong một quốc gia hòa bình, thống nhất, nên đã được sự
đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của loài người tiến bộ.
Chừng nào còn quân xâm lược Mỹ trên mảnh đất miền Nam, chừng nào mà miền Nam
chưa được giải phóng, thì nhân dân cả nước cả “ở Bắc và Nam vĩ tuyến 17, đồng
tình và ủng hộ” và “đều có nghĩa vụ chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc”. Có sức
mạnh của chính nghĩa, có sức mạnh nội sinh của tình đoàn kết Bắc - Nam, kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại, với tinh thần và ý chí “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do” của một dân tộc có truyền thống bất khuất, kiên cường
trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã từng bước
đánh bại các chiến lược Chiến tranh đơn phương, Chiến tranh đặc biệt, Chiến
tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ…Cuối cùng, cuộc Tổng tấn
công Mùa xuân 1975 đã giành thắng lợi, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai
miền Nam - Bắc đã “sum họp một nhà”, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh không những để lại một sự nghiệp chính trị vẻ vang mà còn để lại một tấm gương sáng ngời về những phẩm chất và năng lực một nhà chính trị, một nhà cách mạng tượng trưng cho những gì cao quý, đẹp đẽ nhất về trí tuệ, tâm hồn, ý chí, nhân cách của dân tộc và của loài người. Ở Hồ Chí Minh đã hội tụ phẩm chất và năng lực hiếm có của một kiểu lãnh tụ của nhân dân.
Trả lờiXóaBạn nói rất đúng
Xóa