Trong
Văn kiện Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng
hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế".
Với đường lối đối ngoại đúng đắn và thành tựu đạt được qua hơn 30
năm đổi mới, chúng ta luôn được dư luận thế giới đồng tình và đánh giá cao. Ấy vậy mà
đây đó vẫn xuất hiện những giọng điệu lạc lõng cho rằng, tư duy ngoại giao của
Việt Nam đã lỗi thời và khuyến cáo rằng, đã đến lúc Việt Nam phải thay đổi
chính sách đối ngoại nếu không muốn bị cô lập... Thực chất của chiêu trò này
không gì khác vẫn là xuyên tạc sự thật hòng làm cho thế giới nghi kỵ với Việt
Nam, chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam với các nước, làm giảm lòng tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng ta.
Những giọng điệu ấy dù có xảo quyệt,
tinh vi đến đâu đi chăng nữa cũng không thể xuyên tạc được sự thật lịch sử,
không thể đánh lừa được dư luận. Thực tiễn lịch sử từ khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời (2-9-1945) cho
đến nay, đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn, sáng
tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập
công bố trước quốc dân đồng bào tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2
tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Có
thể nói đó là những thông điệp ngoại giao đầu tiên mà Việt Nam muốn gửi tới thế
giới. Trong hoàn cảnh đất nước vừa giành được độc lập, với một chính quyền non
trẻ đứng trước vô vàn gian nan, thử thách, có những lúc ở tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”, Việt Nam đã thể hiện rõ ý chí và thiện chí của mình đó là lấy
độc lập, tự chủ, bằng sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của thế
giới. Trên thực tế ngoại giao đã được Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ và xây
dựng chính quyền non trẻ, huy động nhân tài, vật lực để kiến thiết đất nước.
Những thành công khởi đầu ấy đã đặt móng, xây nền cho công tác ngoại giao, tiếp
thêm động lực và để lại những kinh nghiệm quý để Việt Nam tổ chức mặt trận
ngoại giao trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc sau này.
Trong những năm kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược, thực hiện những đường lối, quyết sách đúng đắn, đặc
biệt là các hoạt động ngoại giao khôn khéo, linh hoạt theo phương châm “dĩ bất
biến, ứng vạn biến” của Đảng ta, đấu tranh ngoại giao đã góp phần quan trọng
nâng cao địa vị của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế; phân
hóa, cô lập kẻ thù. Và cuối cùng, bằng những thắng lợi trên mặt trận ngoại giao
kết hợp với những thắng lợi về quân sự trên chiến trường, chúng ta đã buộc thực
dân Pháp phải cam kết công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam
và các nước Đông Dương. Thực hiện đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về
đối ngoại, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác ngoại giao Việt
Nam luôn là một mặt trận hỗ trợ và phối hợp với mặt trận đấu tranh chính trị,
đấu tranh quân sự. Bằng nhiều hoạt động và biện pháp linh hoạt, sáng tạo, hiệu
quả, đấu tranh ngoại giao đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất nước nhà.
Sau khi đất nước thống nhất, đặc
biệt là qua 30 năm đổi mới, công tác đối ngoại luôn bám sát tình hình thế giới,
tiếp tục đạt được những thành quả quan trọng, góp phần không nhỏ vào những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước. Sẽ là phiến diện nếu bàn đến
thành tựu của công tác ngoại giao mà không nhấn mạnh nhân tố quyết định đó là
sự phát triển trong tư duy ngoại giao và vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Có thể
khẳng định tư duy ngoại giao của Đảng ta luôn đổi mới và phát triển không
ngừng. Chính sự đổi mới, phát triển ấy đã giúp cho chính sách ngoại giao của
Việt Nam luôn phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với tình hình thế giới
và trong nước, đạt được những thành tựu kỳ diệu, không ngừng nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế.
Sự phát triển tư duy ngoại giao của
Đảng ta được thể hiện rõ nét trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đề ra. Trong đó về lĩnh vực đối ngoại, Đảng
ta đã thể hiện rõ quan điểm, cái nhìn mới mẻ về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; về những tác động, ảnh hưởng của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ thế giới với Việt Nam; về xu thế mở rộng phân
công, hợp tác giữa các nước... Từ những nhận định chiến lược, Đảng ta chủ trương:
Mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Sau hơn 1 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, ngày 20-5-1988, Bộ
Chính trị đã có Nghị quyết số 13/NQ-TW "Về nhiệm vụ và chính sách đối
ngoại trong tình hình mới", trong đó khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi
ích cao nhất của Việt Nam là "Củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung
sức xây dựng và phát triển kinh tế". Nghị quyết cũng thể hiện rõ quan điểm
chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng ta đó là "thêm bạn, bớt thù"...
Trong đổi mới về tư duy đối ngoại, Bộ Chính trị xác định: Đổi mới tư duy cho
kịp với sự phát triển nhanh chóng của tình hình thế giới, kết hợp sức mạnh của
thời đại trong điều kiện mới của tình hình thế giới. Như vậy có thể nói, Nghị
quyết 13 của Bộ Chính trị đã đánh dấu sự đổi mới tư duy về công tác đối ngoại.
Đây là cơ sở hình thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Trước những diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới vào những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niêm 90 của thế
kỷ trước, tại Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991), Đảng ta tiếp tục chủ trương
mở rộng quan hệ đối ngoại, với trọng tâm là “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi
với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau, trên cơ
sở nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”. Nhiệm vụ bao trùm của công tác đối ngoại là: "Giữ vững hòa bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ".
Từ Đại hội VII đến Đại hội XI, Đảng
ta chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại theo phương châm:
Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã kế thừa những nội dung cơ bản của
đường lối đối ngoại được thông qua tại các kỳ đại hội trước, đặc biệt là Đại
hội XI và có những bổ sung, phát triển mới. Đại hội XII chủ trương tiếp tục
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế; nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp
tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu.
Như vậy có thể thấy rõ đường lối đối
ngoại rộng mở đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã được Đảng ta
bổ sung, phát triển thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Tính đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả của
đường lối đó đã được minh chứng bằng thành tựu rực rỡ của công tác đối ngoại
qua các nhiệm kỳ đại hội. Đường lối đó đã góp phần quan trọng tạo ra môi trường
hòa bình, ổn định, điều kiện thuận lợi và tranh thủ được sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế trong phát triển KT, XH, tăng cường QP, AN, nâng cao vị thế và uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối đúng đắn đó, Việt Nam
đã tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, đưa các quan hệ
quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, đồng thời hội
nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu. Đường lối đó đã
khẳng định vị thế và vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới.
Sự thật rất rõ ràng vậy mà người ta
vẫn cố tình xuyên tạc. Hành động xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam mà
những kẻ phản động đang tiến hành là hết sức nguy hiểm. Đặc biệt giữa lúc toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tập trung phát huy sức mạnh tổng hợp, tranh
thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì những hành
động ấy dễ làm nhiễu thông tin, gây phân tâm, gây hiểu lầm trong quan hệ của
các nước với Việt Nam, tác động tiêu cực tới niềm tin của nhân dân vào đường
lối đối ngoại của Đảng.
Sự phát triển trong tư duy ngoại
giao, tính đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả trong đường lối đối ngoại của Đảng ta
là lời tuyên bố bác bỏ mọi giọng điệu xuyên tạc sự thật của các thế lực thù
địch, các tổ chức phản động, những phần tử cơ hội và bất mãn chính trị. Vấn đề
đặt ra với mỗi người Việt Nam chân chính ở cả trong và ngoài nước là cùng với
quán triệt, nâng cao nhận thức về đường lối đối ngoại của Đảng, phải chủ động
phát hiện và đấu tranh mạnh mẽ phản bác mọi thông tin sai sự thật, những luận
điệu xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch, nhằm bảo vệ đường lối của
Đảng, góp phần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực và trên thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét