Cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 với hiệu lực chiến đấu “cộng hưởng” lớn lao chưa
từng có, đã làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm góc, gây chấn động dữ dội
trong dư luận không chỉ ở nước Mỹ mà trên toàn thế giới. Sự chấn động ấy được
thể hiện qua một số sách báo xuất bản lúc đó và cả sau này.
Nhà sử học Mỹ Ga-bri-en
Côn-cô (Gabriel Kolko) trong tác phẩm Giải phẫu một cuộc chiến tranh, xuất
bản tại Niu Oóc (New York) năm 1985, đánh giá: “Cuộc tiến công Tết là sự kiện
quan trọng nhất và phức tạp nhất của chiến tranh Việt Nam”. Theo nhà sử học
này, với Mậu Thân 1968, “Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh nước ngoài đầu
tiên của Mỹ kể từ năm 1882 đã gây ra cuộc khủng hoảng xã hội, nội bộ sâu sắc và
một sự phân hóa về chính trị”.
Còn tướng Mắc-xoen
Tay-lơ (Maxwell D. Taylor) - cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, sau khi từ chức (tháng
6-1965) về làm cố vấn đặc biệt của Tổng thống Lin-đơn Giôn-xơn (Lyndon
B.Johnson), trong hồi ký Thanh gươm và lưỡi cày - xuất bản tại Niu
Oóc năm 1972, đã thừa nhận: “Ngày 31-1-1968, quân địch (tức quân giải phóng -
người viết) tiến công và chỉ trong vòng 2 ngày, họ đã tiến vào 5 đô thị lớn, 39
tỉnh lỵ và nhiều thành phố. Những trận tiến công của họ đã được báo chí Mỹ tường
thuật dưới dạng những hàng tít lớn được chiếu trên màn ảnh vô tuyến truyền hình
và đã làm cho phần lớn dân chúng Mỹ và một số quan chức kinh hoàng. Phải rất
lâu họ mới hoàn hồn và trong một số trường hợp, sự hoàn hồn đó mãi mãi không
bao giờ được khôi phục lại hoàn toàn”.
M.Tay-lơ còn nói: “Những
điều bất ngờ thực sự mà cuộc tiến công Tết 1968 đã gây cho tôi không phải là việc
đối phương đã mở được một cuộc tiến công lớn mà chính là việc họ đã mở cùng một
lúc nhiều trận tiến công mãnh liệt đến như thế”.
Tướng W.C. Oét-mo-len
(W.C.Westmoreland) - nguyên Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam viết
trong Một quân nhân tường trình, xuất bản ở Niu Oóc năm 1976: “Việt Cộng
đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong thiệt hại
và nền kinh tế bị phá hoại… các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa… Nói theo quan
điểm thực tế thì chúng ta (Mỹ) phải công nhận, đối phương đã giáng cho Chính phủ
Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề”. W.C. Oét-mo-len còn nhận xét một cách bi quan
rằng: “Chiến tranh đã trở thành một vấn đề chính trị với triển vọng địch (tức
quân giải phóng - người viết) có thể thắng ở Oa-sinh-tơn như họ đã thắng ở
Giơ-ne-vơ năm 1954. Ý chí của các chính khách Mỹ đang suy giảm”.
Ngày 27-3-1968, chưa đầy
2 tháng sau khi ta mở cuộc tiến công, cựu Tổng thống Mỹ D. Ai-xen-hao (D.
Eisenhower), đã phải than thở: “… Chưa bao giờ gặp phải tình trạng đáng buồn
như tình cảnh hiện nay của nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc về chiến tranh”.
Ngay đương kim Tổng thống
L. Giôn-xơn lúc bấy giờ cũng tỏ ra chán nản, dao động. Trong hai ngày 25 và
26-3-1968, ông ta đã triệu tập một cuộc họp “những nhân vật am hiểu tình hình
nhất”. Phiên họp kéo dài với những thành viên hội nghị gồm những người nắm những
địa vị then chốt nhất trong Chính phủ Mỹ, L. Giôn-xơn đã hỏi quan điểm từng người
một. Và, “Tổng thống đã nhận được những câu trả lời vô cùng bi quan của những
người từ trước đến nay vẫn được xem là loại cứng rắn… Cuối cùng, Tổng thống quyết
định rời khỏi sân khấu chính trị với hy vọng thống nhất lại một quốc gia đang bị
chia rẽ ngay trong những người thân cận nhất của Tổng thống”. Sau đó, ngày
8-6-1969, R. Ních-xơn (Richard M.Nixon) gặp Nguyễn Văn Thiệu tại đảo Mít-uây
(Midway) để bàn về việc Mỹ sẽ rút quân khỏi Việt Nam. Hen-ry Kít-xinh-giơ
(H.Kissinger), cựu Ngoại trưởng Mỹ nhận xét: “Việc Tổng thống chúng ta chỉ có
thể gặp người lãnh đạo một nước mà hơn 30.000 người Mỹ đã chết vì nó trên một
hòn đảo hiu quạnh trong một khung cảnh đẹp trời của Thái Bình Dương chứng minh
tình hình rối như tơ vò mà chiến tranh Việt Nam đã dìm xã hội chúng ta vào”.
Đó là lời của các nhân
vật chóp bu trong giới cầm quyền Mỹ. Còn báo chí Mỹ thì sao?
Tờ Tin tức
Oa-sinh-tơn ngày 31-1-1968 đã viết: “Các cuộc tiến công ồ ạt, táo bạo của
cộng sản ngày 31-1 vào Sài Gòn, 8 tỉnh lỵ và 30 thị trấn nhỏ hơn là một điều
đáng kinh ngạc. Cảnh sát quân sự Mỹ đã phải đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống
nóc nhà sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong khói đạn để giành lại ngôi nhà được coi là
“chống du kích” nhưng lại bị cộng sản chiếm trong 6 giờ liền. Chỉ riêng cảnh tượng
đó cũng đủ để buộc Chính phủ Giôn-xơn dẹp đi, coi là không có giá trị những nhận
định lạc quan của mình”.
Thời báo Niu Oóc, tờ
báo lớn nhất của Mỹ số ra ngày 1-2-1968 bình luận: “Cuộc tiến công của đối
phương đột nhập cả đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cho thấy thêm những bằng chứng đau
xót về sức mạnh có hạn của Mỹ ở châu Á. Bằng chứng cuộc tiến công táo bạo vào
những thành phố chính ở miền Nam Việt Nam và bằng sự tập trung quân ở Khe Sanh,
cộng sản đã làm tiêu tan niềm lạc quan bao trùm lên Oa-sinh-tơn và Sài Gòn
trong mấy tháng qua. Đây rõ ràng không phải là hành động của một đối thủ đang yếu
dần như các nhà quân sự Mỹ đã khẳng định hồi tháng 11 năm 1967”.
Cũng tờ báo này, trong
số ra ngày hôm sau 2-1-1968 có đoạn: “Chiến thắng của Việt Cộng chứng minh sự
suy yếu của cơ cấu chính trị mà Mỹ dùng làm chỗ dựa trong cố gắng chiến tranh
và đe dọa thủ tiêu hoàn toàn các cơ cấu chính trị đang suy yếu”. Tác giả
bài báo tỏ ý lo ngại rằng: “Hậu quả chính trị do thắng lợi đáng kinh ngạc của
Việt Cộng gây ra lần này mới là nguy hại nhất”.
Không chỉ báo chí Mỹ,
các báo phương Tây và các nước trên thế giới đều đưa tin và bình luận về sự kiện
lịch sử này.
Hãng thông tấn Roi-tơ (Anh)
ngày 3-2-1968 nói: “Quy mô và tính chất ác liệt của các trận tấn công phối hợp ở
Sài Gòn và ở các trung tâm chủ chốt khác tại Nam Việt Nam làm cho Mỹ và các nước
đồng minh rất đỗi ngạc nhiên”. Kế đó, ngày 5-2-1968 hãng này thống kê: “Mỹ có đến
nửa triệu quân ở Nam Việt Nam, đã mất 13 năm và đã tiêu mỗi ngày 60 triệu đô-la
mà vẫn không bảo vệ được một tấc đất vuông nào ở miền Nam Việt Nam cả”. Trong
khi đó, báo Người quan sát (Anh) tỏ ra ngạc nhiên khi than rằng: “Người
ta không thể tin là một tình hình như thế lại có thể xảy ra”.
Báo Thế giới (Pháp)
ngày 1-2-1968 mỉa mai: “Người Mỹ đã từng khẳng định dân chúng Nam Việt Nam chịu
đựng hơn là ủng hộ Mặt trận Dân tộc giải phóng, giờ đây liệu họ còn có thể nêu
lên những lý lẽ như thế nữa không sau khi đã xảy ra một cuộc biểu dương đáng
khâm phục về sức mạnh và lòng dũng cảm của Việt Cộng như vậy”. Báo Chiến đấu ngày
1-2-1968 khẳng định: “Điều hiển nhiên là người Mỹ đã thua đứt về mặt chính trị
trong cuộc chiến tranh này rồi. Những gì xảy ra ở Sài Gòn cũng đủ cho thấy Mặt
trận Dân tộc giải phóng đã nắm được các tầng lớp dân chúng ở miền Nam Việt Nam
trong mức độ lớn biết nhường nào”.
Tờ Le Figaro (Pháp)
ngày 2-2-1968 ca ngợi: “Cuộc tiến công lừng danh của Việt Cộng cho ta thấy trước
hết cái tài tình của những người chỉ huy trong việc hướng dẫn cuộc chiến tranh
vừa quân sự, vừa chính trị này. Về mặt đối nội - họ vừa thu được một thắng lợi
lớn; họ chứng tỏ cho nhân dân Việt Nam thấy rằng họ có thể đánh nơi nào và lúc
nào cũng được hết. Họ làm cho chính phủ Sài Gòn và quân đội của chính phủ này
trở thành một trò cười. Họ tăng cường sự kiểm soát của họ, và do đó, làm giảm bớt
sự kiểm soát của chế độ Sài Gòn đối với dân thường, những người dân thường này
thì đầy lòng kính nể và khâm phục đối với Mặt trận Dân tộc giải phóng”.
Nhiều báo của các tổ chức
đảng cộng sản và công nhân ở các nước tư bản đều tỏ thái độ khâm phục đối với
cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân ta qua sự kiện Tết. Báo Nhân đạo -
cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp ngày 1-2-1968 đã ca ngợi: “Đây là cuộc
tiến công lớn nhất của các lực lượng vũ trang giải phóng. Những người yêu nước
miền Nam Việt Nam đã chứng tỏ rằng ở khắp nơi, quyền chủ động đang thuộc về họ,
họ có thể quyết định địa điểm, thời gian của các cuộc tiến công làm cho bộ chỉ
huy Mỹ luôn luôn bở hơi tai”.
Các nước trong phe xã hội
chủ nghĩa lúc đó thì vui mừng. Hầu như báo của nước nào trong ngày 31-1-1968 và
ngày 1-2-1968 cũng đăng bài biểu lộ niềm hân hoan trước thắng lợi của nhân dân
ta. Tiêu biểu là tờ Diễn đàn nhân dân Ba Lan, có đoạn: “Các trận đánh táo
bạo được chuẩn bị tốt của những người yêu nước miền Nam Việt Nam là sự phát triển
của các cuộc tiến công trên một quy mô rộng lớn mà Quân giải phóng đã mở đầu
trong tháng Giêng năm nay vào những lúc, ở những nơi và với hình thức mà họ lựa
chọn. Quân giải phóng trên thực tế đã trói chân, khóa tay tất cả các lực lượng
chiến đấu của quân thù trong khắp các tỉnh”.
Qua một số sách báo Mỹ
và nước ngoài nói về sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 có thể nhận thấy, dù ở góc độ
nào, dưới con mắt của các nhà khoa học quân sự, nhà chính trị, nhà sử học hay
nhà báo, từ người dân bình thường đến các tướng lĩnh cao cấp, thậm chí cả Tổng
thống đương nhiệm của nước Mỹ lúc bấy giờ đều phải thừa nhận tác động to lớn của
sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 đối với toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở
Việt Nam. Điều này chứng tỏ tầm vóc và ý nghĩa sâu sắc của cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 của quân và dân ta ở miền Nam. Nó đập tan những luận
điểm sai trái và xua đi những nghi ngờ về thắng lợi của ta trong lịch sử Tết Mậu
Thân năm 1968./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét