Từ khi loài người xuất hiện đến nay, có 3 điều trở
thành qui luật tồn tại và phát triển xã hội: (1) Con người là chủ thể của sự cải
biến, thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội, nếu không có cải biến thì
con người không thể tồn tại; các nền văn minh nhân loại đã trải qua và đang hướng
tới chính là sự tích tụ hàng triệu năm tiến hóa và hàng ngàn năm sáng tạo; (2)
Vì sự sinh tồn, con người buộc phải tìm ra những phương thức tác động tới tâm
lý, tư tưởng, cố kết cộng đồng, hợp lực đấu tranh với thiên tai, địch họa; sức
mạnh của con người không nằm trong sức mạnh của số đông, cơ bắp hay sức mạnh vũ
khí hiện đại, mà được tiềm ẩn và khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần; trước mỗi việc
đại sự của cộng đồng, thường người ta phải làm thông tư tưởng cho mọi người; đó
chính là vũ khí đặc biệt của con người, thiếu nó mọi sự bất thành; (3) Thủ lĩnh
của một bộ tộc, bộ lạc, quốc gia trước hết phải là người biết thu phục nhân
tâm; một chính đảng có khả năng cầm quyền và tồn tại trước hết phải dựa vào nền
tảng tư tưởng tiến bộ, biết phụng sự vì lợi ích tối cao của Nhân dân, của đất
nước, bảo đảm quyền dân chủ thực sự cho Nhân dân, giữ được niềm tin của Nhân
dân; dựa vào luật pháp là tối thượng để quản lý xã hội; khi những người cầm quyền
bị lợi ích cục bộ thao túng, mất niềm tin trong quần chúng nhân dân thì chế độ
tất yếu sụp đổ.
Bài học xương máu từ sự thất bại của Công xã Pa-ri, sự
sụp đổ của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là minh chứng điển hình
về sự thiếu hụt hoặc đánh mất nền tảng tư tưởng.
Sự hình thành, tồn tại của nhà nước và chế độ dân chủ ở
Hy Lạp, La Mã trước hết là dựa vào ý nguyện của dân được tham gia, được thể hiện
quyền công dân của mình đối với việc điều hành xã hội. Những bộ luật sơ khai được
khắc trên đá của thành Athens cổ đại (Hy Lạp) đã công khai, minh bạch quyền
công dân, người dân thấy mình được tôn trọng, được hiện diện trong quá trình kiến
tạo và duy trì nhà nước. Tuy nhiên, đến khi chế độ phong kiến, rồi chế độ tư sản
thì quyền công dân của con người đã bị tước bỏ; phân chia lợi ích và phân tầng
xã hội dần trở thành mâu thuẫn đối kháng; cách mạng xã hội vì thế mà bùng nổ.
Công xã Pa-ri, Cách mạng Tháng 10 Nga, Cách mạng Tháng 8 năm 1945 ở Việt Nam là
kết quả của sự vùng lên chống áp bức cường quyền. Trong các sự kiện đó, con người
đã được giác ngộ hướng tới một xã hội, một chế độ tốt đẹp, bình đẳng, dân chủ
hơn. Công tác tư tưởng chính là tuyên truyền, giác ngộ, giáo dục con người biết
phản kháng, đấu tranh với những loại hình áp bức, bất công, xây dựng một chế độ
xã hội dân chủ, người biết tôn trọng người, nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
xã hội đều phải hướng vào hiện thực hóa những giá trị nhân văn, nhân bản được
nêu trong hiến pháp, được khẳng định trong chủ trương, đường lối của đảng cầm
quyền.
Dân tộc ta có một giá trị tư tưởng bất biến, trở thành
giá trị riêng có để trường tồn chính là sự tự tôn, tự lập, tự cường. Làm cho
giá trị cao quí ấy trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong mỗi con người, mỗi cộng
đồng và toàn xã hội thì chắc chắn đó sẽ là sức mạnh sáng tạo lớn lao chưa từng
có trong thời đại hiện nay. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã cùng Đảng
ta sử dụng vũ khí tư tưởng để đánh tiêu tan tâm lý nhược tiểu, buông xuôi số phận
lịch sử. Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và cuộc đấu tranh bảo vệ
chính quyền cách mạng non trẻ năm đầu sau tuyên ngôn độc lập, rồi 2 cuộc kháng
chiến thần thánh, vĩ đại đã cho thấy sức mạnh của một dân tộc có Đảng, có Bác Hồ
soi đường chỉ lối. Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là kim chỉ nam cho sự hoạch định
đường lối lãnh đạo của Đảng, là cứu cánh, là sự giải tỏa mọi bế tắc lịch sử mà
những bậc tiền bối trước Nguyễn Tất Thành từng cam chịu (điều này đã được Phan
Bội Châu thừa nhận rằng, trăm thất bại không một lần thành công).
Nội dung này rất hay, tôi rất thích
Trả lờiXóa