Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến đồng thuận
và đoàn kết, theo Người: "Dân ta xin nhớ chữ đồng: đồng tình, đồng sức, đồng
lòng, đồng minh"; "Biết đồng sức, Biết đồng lòng. Việc gì khó làm
cũng xong", "Sử ta dạy ta bài học này: Lúc nào dân tộc ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn".
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng Cộng
sản Việt Nam, 90 năm lãnh đạo đất nước, đều thống nhất quan điểm là phải xoá bỏ
mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn giáo.
Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao
truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở
trong và ngoài nước.
Việt Nam là quốc gia đa dạng về tôn giáo, tín ngưỡng
và văn hóa. Mỗi một tộc người có một niềm tin, tín ngưỡng và cách bày tỏ đức
tin khác nhau. Như vậy, trên lý thuyết, để có được sự đồng thuận, đoàn kết tôn
giáo là khó khăn. Song, thực tiễn ở Việt Nam, đoàn kết tôn giáo là một truyền
thống rất tự nhiên, rất tập tục thể hiện trên các điểm sau: tín đồ của tôn giáo
này có thể thực hiện hành vi cúng lễ của các tôn giáo khác. Người Việt vừa có
thể đến chùa lễ Phật, vừa đến đền lễ Thánh, đến phủ lễ Mẫu... Tín đồ tôn giáo vừa
có thể tham gia những buổi lễ trọng của tôn giáo mình nhưng vẫn có thể tham gia
các lễ hội dân gian, thành kính cúng lễ trước các Thánh, Thần hay tri ân những
người hy sinh vì dân vì nước.
Mặc dù, nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt là
đa phương, nhiều chiều, trong một làng, một xã có thể có nhiều vị thần hoàng
làng và thần làng nào làng ấy thờ, thánh làng nào làng ấy cúng, nhưng mọi thánh
thần “chung sống” cạnh nhau, đều bình đẳng, cùng đồng tôn, không xung đột, mâu
thuẫn hay phân kháng. Tín đồ khác đạo vẫn cùng nhau chung lưng đấu cật xây dựng
quê hương đất nước.
Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Học thuyết của Khổng
Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Giê su có ưu
điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương
pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách
của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng
có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc
lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ,
tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn
thân thiết”.
Hồ Chí Minh nói như vậy có nghĩa, Phật Thích Ca, Khổng
Tử hay Giê su đều là các bậc đại trí của xã hội đương thời khi đó, học thuyết của
họ đều chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng không còn áp bức, lý tưởng của họ
đều muốn giải thoát chúng sinh, mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.
Xét cho đến cùng, mục tiêu và lý tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tôn giáo là như nhau, chỉ khác nhau ở con đường và cách thức
hành động để đạt đến mục tiêu đó. Người vô thần hay người tôn giáo đều giống
nhau trong thái độ và nghĩa vụ trước các vấn đề của cuộc sống, đều khát khao một
cuộc sống yên bình, có khác chăng là ở cách thức biểu đạt mà thôi.
Ở Việt Nam, chưa lúc nào, người cộng sản chủ trương
tiêu cực về tôn giáo. Thời kỳ đầu khi mới thành lập Đảng Cộng sản, quan điểm tả
khuynh về tôn giáo của Quốc tế Cộng sản, của nước Nga Xô Viết (những đầu thế kỷ
XX) đã ảnh hưởng rất mạnh đến nhận thức và chính sách đối với tôn giáo của Đảng
và Nhà nước Việt Nam. Không khí đấu tranh về đảng phái, về tư tưởng, về lập trường
giai cấp ở Việt Nam cũng khá gay gắt. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân
nhìn nhận về tôn giáo thuần tuý từ góc độ chính trị, hiểu một cách nông cạn tôn
giáo là sai lầm, lạc hậu, mê tín. Người dân theo tôn giáo do chịu ảnh hưởng của
thế giới quan duy tâm và hữu thần nên dễ bị mê muội.
Tuy nhiên, những năm 30, 40 của thế kỷ XX, Lê Hồng
Phong, Trường Chinh với tư cách là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương đã có
nhiều bài viết đả phá những quan điểm, nhận thức lệch lạc về tôn giáo khi đó.
Trong tập sách Gốc rễ của tôn giáo được viết
năm 1933, Lê Hồng Phong (bút danh Hải An) đã phủ định thẳng thừng và trực diện các
quan điểm, nhận định như “Nếu không thủ tiêu tôn giáo trong quần
chúng thì cách mạng không thể thắng lợi được”, hay “tín đồ tôn giáo
phần lớn đi theo chủ nghĩa đế quốc”.
Năm 1946, với bài viết Đánh đổ khuynh hướng sai
lầm. Đừng xâm phạm tới tín ngưỡng của dân, Trường Chinh chỉ rõ, người mác xít
tuy không cổ súy những hủ tục, nhưng vấn đề là phải “giáo dục cho dân biết tại
sao mê tín là sai, hủ tục là dở. Và dù vậy cũng không thể hấp tấp cấm đoán. Nếu
vì cải cách phong tục và tôn giáo mà chia gây chia rẽ nhân dân hoặc làm cho dân
hiểu lầm cách mạng, oán ghét chính quyền mới, thì đó là một tội không thể tha
thứ được”.
Hồ Chí Minh thì nhắc lại nhiều lần, Việt Minh (tức người
cộng sản) không bao giờ chống đạo hay phản đối tôn giáo, sự xích mích nhỏ giữa
đồng bào có đạo và không có đạo là vì đạo đức giáo hóa chưa được phổ cập, không
ảnh hưởng đến sự đại đoàn kết của dân tộc.
Hiến pháp đã quy định, tín ngưỡng tự do, ai khiêu
khích tôn giáo là làm sai Hiến pháp sẽ bị xử phạt. Người cộng sản cũng không chủ
trương phế bỏ tôn giáo và các yếu tố thờ cúng của nó. Người Cộng sản làm cách mạng,
đấu tranh chống kẻ thù là để đem lại độc lập tự do cho nước nhà, cũng là để cho
văn hóa, chính trị, kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo đều được phát triển tự do.
Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam dù tuyên bố theo chủ
nghĩa duy vật và vô thần nhưng trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp
quy về tôn giáo của Nhà nước vẫn ghi nhận những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp
của tôn giáo. Thậm chí khẳng định sự tồn tại lâu dài và tương đồng về lý tưởng
của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn
giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.
Từ trước cho đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn
tin dùng những vị Bộ trưởng là trí thức tôn giáo như Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ,
Vũ Đình Tụng. Mời các chức sắc Công giáo như giám mục Lê Hữu Từ, Giám mục Hồ Ngọc
Cẩn làm cố vấn tối cao cho Chính phủ (1945), Linh mục Phạm Bá Trực làm Phó ban
Thường trực Quốc hội (năm 1946), ông Cao Triều Phát (chủ tịch Hội Cao Đài cứu
quốc 12 phái hiệp nhất) làm Cố vấn Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ.
Rất nhiều chức sắc các tôn giáo hiện nay tham gia đại biểu Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp như: Hòa Thượng Thích Chơn Thiện, Hòa Thượng Thích Thạch Huôi, Thượng tọa Thích Bảo nghiêm, Thượng tọa Thích Thanh Quyết, Linh mục Trần Mạnh Cường, Linh mục Lê Ngọc Hoàn, Nguyễn Tấn Đạt (Phó Ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo), Trần Văn Huynh (Chánh phối sư, Chánh Hội trưởng Ban Cai quản Cao Đài Bạch Y)…
Đoàn kết sẽ mang lại sức mạnh tổng hợp
Trả lờiXóaĐảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam dù tuyên bố theo chủ nghĩa duy vật và vô thần nhưng trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp quy về tôn giáo của Nhà nước vẫn ghi nhận những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của tôn giáo.
Trả lờiXóa