Trên hành trình tìm đường
cứu nước, cùng với những hoạt động thực tiễn phong phú, Nguyễn Tất Thành-Nguyễn
Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này), đã chủ động, độc lập, tích cực học
tập và nghiên cứu lý luận.
Hoạt động học tập lý luận
của Người tập trung chủ yếu từ khi đến Anh (năm 1913). Qua những tài liệu đã được
công bố cho thấy, trong thời gian sống ở Anh, Nguyễn Tất Thành vừa lao động, vừa
tự học tập không ngừng nghỉ. Cùng với vốn tiếng Anh học được, “những năm tháng
sống ở nước Anh, Nguyễn Tất Thành đã tích lũy thêm được vốn hiểu biết về chính
trị của xã hội tư sản, về đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa
chính quốc và thuộc địa của một nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển”.
Tác giả John Callow trong
bài viết của mình, suy đoán rằng: “Có thể chính trong thời gian ở Luân Đôn, lần
đầu tiên Hồ Chí Minh đã đọc các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Các tác phẩm
này được Twentieth Century Press-cơ quan xuất bản của Đảng Dân chủ xã hội Anh,
đặt trụ sở tại tòa nhà Clerkenwell Grenn ở Luân Đôn-xuất bản thành những cuốn
sách giá rẻ. Ngày nay, tòa nhà này trở thành Thư viện tưởng niệm C.Mác và có một
bức chân dung của Hồ Chí Minh được treo ở hành lang bên ngoài căn phòng nơi
V.I.Lênin từng ngồi làm việc vào những năm 1902-1903. Tấm chân dung ấy của Hồ
Chí Minh là bằng chứng về mối liên hệ giữa nhà xuất bản và vị khách nổi tiếng của
mình”.
Những tri thức lý luận tiếp
thu được trong quá trình bôn ba qua nhiều nước và thời gian ở Anh, cho phép
Nguyễn Tất Thành có những nhận thức đúng đắn để phân tích tình hình thế giới
lúc bấy giờ. Người thanh niên yêu nước ấy đã có những nhận định chính xác về
Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở cả châu Âu và châu Á khi viết thư gửi Phan Chu
Trinh: “Cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng, cháu đã nói với Bác về cơn giông sấm
động. Số mệnh sẽ còn dành cho chúng ta nhiều bất ngờ và không thể nói trước được
ai sẽ thắng. Các nước trung lập còn đang lưỡng lự và các nước tham chiến không
thể đoán biết được ý đồ của họ. Tình hình diễn ra là ai thò mũi vào thì chỉ có
thể đứng về phe của địch thủ bên này hoặc địch thủ bên kia. Người Nhật Bản hình
như có ý định nhúng tay vào. Cháu nghĩ trong ba hoặc bốn tháng tình hình châu Á
sẽ có chuyển biến và sẽ có nhiều chuyển biến”.
Hoạt động lý luận của
Nguyễn Ái Quốc có sự phát triển rõ rệt khi Người trở lại Pháp vào khoảng cuối
năm 1917 và gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Trong thời gian này, bằng vốn hiểu biết
của mình, Người không chỉ đơn thuần học tập lý luận mà đã tích cực, chủ động viết
báo, tham gia các buổi diễn thuyết ở Paris. Trong thời gian sống ở Pháp, tri thức
lý luận của Nguyễn Ái Quốc ngày càng được mở rộng. Người hiểu hơn về cuộc chiến
tranh thế giới lúc bấy giờ, hiểu được nỗi đau khổ của nhân dân chính quốc và
thuộc địa khi phải hy sinh xương máu trên chiến trường vì lợi ích của bọn cá mập
tư sản thực dân. Cùng với việc trau dồi vốn tiếng Pháp, Người đã tích cực tới
thư viện để nghiên cứu những vấn đề mà mình quan tâm. Ở đây, Người được đọc trực
tiếp các tác phẩm của các nhà tư tưởng tiến bộ Pháp cũng như phương Tây, nhất
là thời kỳ khai sáng, cận đại.
Bên cạnh đó, Người chủ động
tìm đọc các tác phẩm văn học của Shakespeare, Dickens, Huygo, Zola, Anatole
France... Nhận thấy vốn kiến thức chính trị của mình còn có những hạn chế nhất
định, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia các các cuộc thảo luận với rất nhiều
chủ đề, hình thức khác nhau. Tác giả Trần Dân Tiên đã kể lại: “Trong những buổi
hội họp nói chuyện ở Paris, người ta thảo luận đến tất cả các vấn đề. Từ thiên
văn, địa lý, chính trị, văn học cho đến cách trồng cải soong và nuôi ốc sên.
Trong những buổi họp này có tất cả các hạng người: Bác học, cựu bộ trưởng, nghị
viên, nhà văn, thợ thuyền, người đi buôn, người già và người trẻ. Ở đây có một
không khí thân mật và dân chủ, giống như ở những câu lạc bộ Giacobanh
(Jacobins) thời Đại cách mệnh Pháp. Ở đây người ta có thể học nhiều chuyện và
nhận xét mọi người. Thật là bổ ích”. Thông qua đó để vừa học hỏi, nắm bắt thêm
tình hình, thấy được bầu không khí cách mạng, vừa bày tỏ cho mọi người biết về
tội ác của thực dân Pháp ở những nơi mà Người được chứng kiến, cũng như tình cảnh
dân tộc của mình. Với những hoạt động trên, tư duy lý luận của Nguyễn Ái Quốc
ngày càng phát triển, nhận thức các vấn đề chính trị, cách mạng ngày càng sâu sắc
hơn.
Cùng với việc học tập lý
luận, Nguyễn Ái Quốc đã bước đầu tiến hành tổng kết những kinh nghiệm, hiểu biết
đã tích lũy trong thời gian trước đó, nhất là về vấn đề chủ nghĩa thực dân và vấn
đề thuộc địa. Điều này được thể hiện rõ qua nhiều bài báo mà Người đã viết:
"Tâm địa thực dân", "Vấn đề dân bản xứ", "Đông Dương
và Triều Tiên", "Thư gửi ông Utơrây", "Chính sách thuộc địa"...
Qua đó đã thể hiện cái nhìn sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc về nhiều vấn đề của cách
mạng, mặc dù chưa nghiên cứu sâu về Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thấy, thời đại mới chính là “thời đại mà ý muốn của nhân dân là nắm quyền tự
quyết”, “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ
nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và
tăng cường”. Tuy nhiên, thực dân Pháp lại duy trì một nền bạo chính ở các thuộc
địa của mình. Điều đó khiến nó tạo ra một sự đối nghịch sâu sắc giữa người bản
xứ và bọn thực dân, cả về tâm lý, hành chính, pháp lý, về kinh tế và văn hóa:
“Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ
thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được
kêu ca”.
Với sự từng trải và những
ngày tháng miệt mài nghiên cứu, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy: “Từ lâu, chủ nghĩa
tư bản phương Tây như con rắn nhiều đầu, thấy châu Âu là nơi quá chật hẹp để
bóc lột và máu của vô sản châu Âu không đủ dồi dào để thỏa mãn thèm khát, nó
bèn vươn những cái vòi khủng khiếp của nó tới khắp nơi của quả đất. Bọn tư bản
Anh, Đức hoặc Pháp, tất cả đều tương xứng nhau”. Và vì vậy, nếu không có những
vệ tinh thì chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại. Cho nên “Ngày nay không còn là
lúc phải đặt vấn đề Đảng có cần hay không cần một chính sách thuộc địa, bởi
ngày nay không thể có sự tách biệt giữa thuộc địa và chính quốc, giữa vô sản ở
nơi này và vô sản ở nơi kia”.
Một hoạt động lý luận rất
quan trọng của Nguyễn Ái Quốc là soạn thảo (nội dung ý kiến do Người đề ra, luật
sư Phan Văn Trường viết), sau đó thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Versailles bản "Yêu sách của nhân
dân An Nam". Nó như một đúc kết mong muốn trước mắt của những người yêu nước
Việt Nam lúc bấy giờ. Mặc dù không được chấp nhận nhưng nó như là một tuyên bố
chính trị của nhân dân Việt Nam trước thế giới, mở đầu cho việc đòi những quyền
dân tộc cơ bản, đồng thời phơi bày bản chất, dã tâm lừa bịp của bọn thực dân, đế
quốc với nhân dân các thuộc địa, mở ra một giai đoạn mới trong phong trào giải
phóng dân tộc. Qua hoạt động này, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự cần thiết phải
thay đổi trong cách tiếp cận, trong hành động để giải phóng dân tộc: “Muốn được
giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng
của bản thân mình”. Vì vậy, không thể tin những lời tuyên bố tự do đầy đường mật
của các nhà chính trị tư bản trong chiến tranh mà cần phải tìm kiếm một lý luận,
một phương pháp khác.
Những hoạt động tổng kết
thực tiễn này có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc có cái nhìn
toàn diện về chủ nghĩa thực dân, về tình cảnh, vị trí, vai trò của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới. Vào năm 1920, Người đã chuẩn bị tư liệu
và viết một quyển sách về tình hình Đông Dương với nhan đề "Những người bị
áp bức". Tuy nhiên, nó đã không ra mắt độc giả vì bản thảo bị mất (nhưng
đây cũng là cơ sở để sau này Người viết tác phẩm "Bản án chế độ thực dân
Pháp"), như một sự đánh giá tổng kết về chủ nghĩa thực dân và các dân tộc
thuộc địa. Trên cơ sở đó đi đến khẳng định: “Thế giới sẽ chỉ có nền hòa bình cuối
cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thỏa thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái
vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó”.
Từ khi biết được về Cách
mạng Tháng Mười Nga thành công, cùng với đó là việc thành lập Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc đã để tâm nghiên cứu và có những hiểu biết nhất định về những vấn
đề cách mạng. Điều đó được thể hiện qua việc trao đổi với các đồng chí của mình
trong Đảng Xã hội Pháp và với nhiều người Việt Nam yêu nước đang ở Paris, cũng
như trong diễn thuyết. Vào ngày 11-2-1920, Người đã trình bày đề tài Chủ nghĩa
bônsêvích ở châu Á tại Hội nghị những người thanh niên cộng sản quận 2, đồng thời
còn trình bày cả vấn đề ruộng đất công ở Trung Quốc và Việt Nam. Cùng với hoạt
động thực tiễn, những hoạt động lý luận để tìm đường giải phóng dân tộc là một
nhân tố rất quan trọng dẫn Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc đọc
"Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa"
của V.I.Lênin, đăng trên Báo Nhân đạo (L'Humannite, số ra ngày 16 và
17-7-1920), cộng với những trải nghiệm của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy câu
trả lời cho con đường giành độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào mình sau
bao nhiêu năm tìm kiếm- con đường cách mạng vô sản.
Những hoạt động lý luận của
Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn tìm đường cứu nước không chỉ có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc Người tìm thấy con đường cứu nước mà còn định hình cho những
hoạt động lý luận sau này của Hồ Chí Minh. Những hoạt động lý luận của Người
trong giai đoạn sau chính là sự phát triển, hoàn thiện những nội dung, phương
thức hoạt động lý luận của giai đoạn trước đó. Điều này cũng có sức gợi mở rất
lớn để vận dụng phương pháp, cách thức của Người nhằm nâng cao chất lượng trong
tiến hành các hoạt động lý luận hiện nay.
Mọi người dân Việt Nam luôn nhớ công lao trời bể của Chủ tịch Hồ Chí Minh; vì vậy mỗi người dân; nhất là cán bộ, Đảng viên phải thường xuyên học tập và làm theo tấm gương, đạo đức, phong cách của Người.
Trả lờiXóa