Cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư được hình thành dựa trên nền tảng của công nghệ số cùng với việc
sử dụng phổ biến Internet. Đặc trưng quan trọng của cuộc cách mạng này là sự
phát triển hệ thống liên kết thế giới thực và ảo trên cơ sở internet kết nối vạn
vật (Internet of Things - IoT) và Internet kết nối các hệ thống (Internet of
Systems - IoS). Trong bối cảnh diễn ra cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
trên không gian mạng xuất hiện những nguy cơ, hoạt động tác động mạnh mẽ đến an
ninh quốc gia của tất cả các nước, trong đó có Việt Nam. Ở các nước trên thế giới,
nhất là các nước có nền khoa học - công nghệ phát triển, như Mỹ, Nga, Trung Quốc...,
đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia trên
không gian mạng. Cụ thể là:
Một là, chiến tranh
mạng. Có thể nói, chiến tranh mạng là một hình thái chiến tranh mới, vượt ra khỏi
khuôn khổ khái niệm về chiến tranh quân sự truyền thống. Đây là cuộc chiến
tranh bất đối xứng, chỉ một lực lượng rất nhỏ cũng có thể gây thiệt hại lớn cho
đối phương. Chiến tranh mạng không sử dụng khí tài quân sự truyền thống mà sử dụng
lực lượng tinh nhuệ để lập trình, chế tạo, sản xuất và nhân bản hàng loạt vũ
khí mạng, như mã độc, hệ thống công cụ tấn công mạng, hệ thống công cụ tình báo
mạng. Mặc dù được tiến hành trên không gian mạng nhưng hậu quả do chiến tranh mạng
gây ra có thể vượt ra ngoài phạm vi không gian ảo và có sức tàn phá lớn, thậm
chí vượt xa chiến tranh quân sự truyền thống. Tháng 4/2007, hàng loạt trang
thông tin điện tử (website) các cơ quan chính phủ, nhà cung cấp dịch vụ
Internet và ngân hàng của Estonia bị tấn công liên tục. Hậu quả là hầu hết
các website tại Estonia bị tê liệt trong khoảng 3 tuần, gây ra nhiều thiệt
hại cho nước này. Năm 2009, hàng loạt website của chính phủ Mỹ và Hàn Quốc cũng
bị tấn công, trong đó nhiều website quan trọng của Mỹ và Hàn Quốc phải tạm ngừng
hoạt động.
Hai là, gián điệp mạng. Gián
điệp mạng ra đời cùng với sự xuất hiện của không gian mạng với sự kết nối của mạng
máy tính, internet và sự phát triển của công nghệ thông tin. Gián điệp mạng có
thể gây ra những tổn thất khôn lường về nhiều mặt, thậm chí làm ảnh hưởng đến
nhiều quốc gia thông qua hoạt động tấn công vào hệ thống máy tính của các cơ
quan chính quyền, tập đoàn kinh tế, hệ thống ngân hàng hoặc hệ thống thông tin
của các cảng sân bay hàng không quốc tế,... để đánh cắp dữ liệu số, thông tin
bí mật hoặc tấn công mã độc, chiếm quyền kiểm soát, điều khiển hệ thống thông
tin... Từ năm 2006 đến năm 2017, WikiLeaks cho công bố hàng loạt tài liệu mật,
trong đó có nhiều tài liệu mật của Mỹ và một số nước, bao gồm cả các tài liệu
phản ánh hoạt động giám sát các thiết bị di động của Cơ quan tình báo Trung
ương Mỹ (CIA). Năm 2013, Edward Snowden tiết lộ thông tin mật về chương trình
do thám toàn cầu do tình báo Mỹ và Anh thực hiện, gồm cả các hoạt động giám sát
điện thoại của một số nhà lãnh đạo trên thế giới, như Tổng thống Nga Dmitry
Medvedev, Thủ tướng Đức Angela Merkel... Năm 2016, 11,5 triệu tài liệu mật cũng
đã được công khai cho báo chí trong vụ “Hồ sơ Panama”...
Ba là, khủng bố mạng. Thời
gian qua, các đối tượng khủng bố quốc tế; các thế lực thù địch; các tổ chức tin
tặc, điển hình như Tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS), tổ chức tin
tặc do “nhóm hacker ẩn danh” Anonymous sáng lập và chỉ đạo, luôn tìm cách lợi dụng
không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để thực hiện các
hành vi khủng bố, tài trợ khủng bố. Hoạt động khủng bố mạng gồm tấn công mạng
nhằm mục đích khủng bố; tấn công khủng bố trên mạng; sử dụng không gian mạng để
đe dọa khủng bố. Năm 2015, nhóm hacker người Tunisia Al-Fallaga có quan hệ
chặt chẽ với mạng lưới thánh chiến toàn cầu đã tiến hành chiến dịch “Op
Electronic Badr” tấn công các trang tin điện tử của ngân hàng Hapoalim, Mossad
và nhiều website khác của Chính phủ Israel, sau đó đăng tải các tài liệu thu được
lên Facebook. Thời gian qua, tổ chức khủng bố IS cũng liên kết chặt chẽ với các
nhóm tin tặc, như Cyber Caliphate, IS Hacking Division, ISIS Cyber Army và một
số nhóm tin tặc khác ủng hộ IS tiến hành các vụ tấn công mạng nhằm vào mục tiêu
của các nước mà chúng cho là thù địch.
Bốn là, tội phạm mạng. Bên cạnh những loại tội phạm, như khủng bố, gián điệp trên không gian mạng, còn xuất hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác, như xâm nhập bất hợp pháp, lấy cắp, sửa đổi, phá hoại dữ liệu, dùng dữ liệu đó vào mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, chiếm đoạt tài sản, phát tán thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư. Thủ đoạn của chúng là sử dụng kỹ thuật tấn công chủ động, tấn công thụ động; tấn công lợi dụng lỗ hổng bảo mật, để xâm nhập bất hợp pháp...; trong đó thủ đoạn phổ biến là lừa người sử dụng để cài backdoor, trojan. Với ưu thế miễn phí, tiện lợi, các dịch vụ mạng như Skype, Yahoo, Facebook, Viber, Zalo,... được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam. Tội phạm mạng đã lợi dụng các dịch vụ này để cài mã độc, phần mềm gián điệp vào các thiết bị di động, máy tính kết nối internet nhằm kiểm soát, lấy cắp nội dung thông tin, dữ liệu cuộc gọi, gây ra nhiều thiệt hại cho người dùng, trong đó có các cá nhân, cơ quan chính quyền các nước. Ví dụ, như vụ “hacker của thế kỷ 21” Albert Gonzalez đánh cắp dữ liệu của hơn 170 triệu thẻ tín dụng trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2007, gây chấn động dư luận Mỹ và thế giới do mức độ hậu quả thiệt hại nặng nề mà nó gây ra. Hay vụ Mỹ và Anh bắt giữ 48 người ở Mỹ liên quan đến vụ tấn công được biết đến với loại trojan mang tên Zeus mà họ dùng để trộm cắp hơn 70 triệu USD từ các ngân hàng trên khắp thế giới.
Lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết; những kẻ cố tình chống phá Đảng, Nhà nước đều phải bị xử lý nghiêm khắc.
Trả lờiXóa