Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Trong hệ thống tư
tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu
ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng
Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân
dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng của Người về đại đoàn
kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập trường, thế giới quan, nhân sinh
quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, được cụ
thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp tập hợp, quy tụ và
phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách mạng,
đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở Nhân dân, “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân”,
đoàn kết được Nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó
là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của
cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân
khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà
đoàn kết với họ”.
Người căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.
Kế thừa và phát triển tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp, đoàn kết và
phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng
định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của
sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Ngay sau đại thắng Mùa
Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
quan điểm đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng, đưa
lên nhiệm vụ hàng đầu. Cùng với việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, ngày
24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thống nhất các đoàn thể
nhân dân và các tổ chức Mặt trận dân tộc trong cả nước (Các tổ chức Mặt trận
là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam). Đại hội thống
nhất các tổ chức Mặt trận cả nước được tổ chức trọng thể tại Thành phố Hồ Chí
Minh, từ ngày 31/1 đến ngày 4/2/1977, quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, đánh dấu bước phát triển lớn mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên phạm
vi cả nước, mở ra một thời kỳ hoạt động mới của Mặt trận và các đoàn thể quần
chúng, góp phần tích cực vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của dân tộc.
Đại hội IV của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động”. Muốn đưa vào sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và
không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng chế độ làm chủ tập thể là
xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân lao động, có tổ chức mà
nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm
này đã được Đại hội V của Đảng khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng và nhân
dân ta đã nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà nước, triển khai thực hiện
nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tăng cường khối đoàn
kết toàn dân tộc. Đại hội xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là Nhân
dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới
sự lãnh đạo cuả Đảng. Tăng cường Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân.
Tại Đại hội VI, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện, có nhiều quan điểm, chủ
trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc như:
“trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”
xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.
Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước, trong đó nhấn mạnh
hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: (1) Sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…; (2) Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn
kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đến Đại hội VIII, Văn kiện Đại hội một lần nữa khẳng định: “Chính những ý kiến,
nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới
của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt
qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu
hôm nay”. Đại hội IX nhấn mạnh: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức
do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đại
hội X chỉ rõ, nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức
mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội; coi đó là “nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Tiếp tục khẳng định quan
điểm của các nhiệm kỳ đại hội trước, Đại hội XI chỉ rõ: Đại đoàn kết toàn dân tộc
phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên
trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng
định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân...”3. Đại hội
XII nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực
mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế,
chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn
của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đại đoàn kết
toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân
dân.
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bổ sung một số nội dung, phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của Nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
tất cả vì nhân dân thân yêu
Trả lờiXóa