Thực tế lịch sử cách
mạng Việt Nam cho thấy, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam,
thì không có việc dùng "chiêu bài chống thực dân, đế quốc" và
"chiêu bài giải phóng miền Nam" để tiến hành cuộc trường chinh kháng
chiến dài 30 năm (1945-1975) như những quy chụp hồ đồ, xuyên tạc, mà chỉ có một
sự thật lịch sử:
Đó là, Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn; đã thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam và lãnh đạo nhân dân Việt Nam đoàn kết "muôn người như một"
trong Mặt trận dân tộc thống nhất, rộng rãi để tiến hành thắng lợi cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm 1945; đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đồng thời đưa
những "thần dân", những người nô lệ xứ An Nam thuộc Pháp trở thành
chủ nhân của nước Việt Nam độc lập, tự do.
Đó là, trước dã tâm
xâm lược của thực dân Pháp, của đế quốc Mỹ và để bảo vệ nền độc lập, tự do đã
giành được; để thực hiện tâm nguyện của đồng bào và chiến sĩ cả nước về một
nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất trong bối cảnh vận mệnh đất nước
như "ngàn cân treo sợi tóc", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hứa: "Vì
yêu mến và tin cậy tôi, mà đồng bào giao vận mệnh nước nhà, dân tộc cho tôi
gánh vác. Phận sự tôi như một người cầm lái, phải chèo chống thế nào để đưa
chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió, mà an toàn đi tới bến bờ
hạnh phúc của nhân dân".
Đồng thời, Người đã
cùng Trung ương Đảng bình tĩnh, sáng suốt phân tích tình hình, kịp thời đề ra
đường lối đúng đắn và những biện pháp khôn khéo để từng bước giải quyết nạn
đói, phát triển kinh tế, văn hóa; tiêu diệt nạn dốt; tổ chức thành công tổng
tuyển cử bầu Quốc hội khóa I, soạn thảo và thông qua Hiến pháp 1946; đồng thời
tiến hành nhiều hoạt động đối ngoại khẩn cấp (ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và
Tạm ước 14/9/1946…), góp phần kéo dài thêm một khoảng thời gian hòa bình quý
giá cho việc chuẩn bị tinh thần và lực lượng của dân tộc khi bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến ngày 19/12/1946 sau đó!
Đó là, hòa bình, độc
lập, tự do và thống nhất đất nước không chỉ là khát vọng ngàn đời của mỗi một
quốc gia, dân tộc mà đó còn là quyền thiêng liêng nhất, là nền tảng cho sự tồn
tại và phát triển của quốc gia, dân tộc đó trong cộng đồng thế giới. Vì thế,
khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi (1945-1954), khi đế
quốc Mỹ cam tâm phá hoại Hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương
(20/7/1954), chia rẽ hai miền Nam, Bắc; nhất là khi vĩ tuyến 17, Cầu Hiền
Lương, sông Bến Hải, Luật 10/59, chính sách “tố cộng, diệt cộng”, dồn dân lập
ấp chiến lược, đàn áp, bắt bớ, tù đầy và ngăn cản sự thống nhất Bắc - Nam được
Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm thực thi ở miền Nam, thì một “địa ngục
trần gian” ở miền Nam có thể chia cắt đất nước ta về không gian và thời gian,
song đã không thể chia cắt ý chí và niềm tin của cả dân tộc về một nước Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ!
Thực tế, đến cuối năm
1958 đầu năm 1959, cách mạng miền nam đứng trước những thử thách ác liệt. Kẻ
thù đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên (7/1955 - 2/1956); riêng ở
Nam Bộ, chúng đã giết hại khoảng 68.000 cán bộ, đảng viên, bắt 446.000 người
(1955- 1958)… Cho nên, đứng trước tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới, nhằm duy
trì và phát triển phong trào cách mạng, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của cán bộ,
đảng viên, của đồng bào yêu nước miền Nam và cũng là đòi hỏi cấp bách của lịch
sử, Hội nghị lần thứ 15(mở rộng, từ ngày 12-22/1/1959) đã nhận định: "Cách
mạng Việt Nam do Ðảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai
nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau nhưng quan hệ hữu cơ với nhau,
song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau nhằm
phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo
điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội".
Thực hiện Nghị quyết 15 và sau đó là Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960) cùng nhiều Nghị quyết chuyên đề khác, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cứu nước của nhân dân ta từng bước giành được thắng lợi, tiến tới cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa