Văn kiện Đại hội XI của Đảng yêu cầu phải “kiên định mục
tiêu là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, vì đây vừa là mục tiêu, lý tưởng,
vừa thể hiện bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng và mỗi cán bộ, đảng
viên. Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vận dụng phù hợp trong từng thời kỳ lịch sử là một trong những nguyên nhân của
thành tựu cách mạng nước ta. Đặc biệt, trong bối cảnh phức tạp của tình hình
thế giới cũng như những thuận lợi và khó khăn ở trong nước hiện nay, việc kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lại càng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
1. Lựa
chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách
quan của cách mạng nước ta. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước, chỉ khi đến
được với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mới tìm thấy con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc. Năm 1924, khi đọc Luận cương của V.I. Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người thấy “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta!”1. Trong cuốn “Đường Kách mệnh”,
Người viết rằng, bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Người chỉ ra:“Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”2. Đó cũng chính là con đường kết hợp độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta là
một tất yếu khách quan do lịch sử quy định, phù hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin,
với mục tiêu lớn của thời đại và ý nguyện của nhân dân; được gắn với đặc điểm,
tình hình của mỗi giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam. Đây không phải do
ý muốn chủ quan của Đảng mà là tổng hợp những điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan, kinh tế và chính trị, trong nước và quốc tế, phản ánh khát vọng của
dân tộc.
Năm
1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á. Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, tiếp tục lãnh đạo nhân dân
ta tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm
1986, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào
thoái trào, phe xã hội chủ nghĩa đứng trước nguy cơ tan rã, khủng hoảng kinh tế
- xã hội trong nước kéo dài, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới, tạo ra một bước ngoặt mang ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Nhờ đó, gần 30 năm qua, nước ta đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới, nâng cao vị thế
trên trường quốc tế. Có thể khẳng định các sự kiện trong những năm: 1930, 1945,
1954, 1975, 1986 đã trở thành những cột mốc lịch sử quan trọng cho
sự lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó minh chứng con đường cách
mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo tất yếu đi lên chủ
nghĩa xã hội; độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất
yếu, nội tại. Bởi, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc. Đúng như Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử”3.
2. Kiên
quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Gần 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển; khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, đất nước ta cũng
đang đứng trước những khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình hình thế giới, khu
vực diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là sự cạnh tranh về chủ quyền, lãnh
thổ, biển, đảo ngày càng quyết liệt giữa các nước diễn ra ở nhiều khu vực,
trong đó có Biển Đông; sự chống phá quyết liệt bằng chiến lược “Diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch, v.v. Trong nước, những hạn chế, khuyết điểm vốn
có của nền kinh tế chưa được giải quyết; những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo,
quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho kinh tế phát triển thiếu ổn
định, chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, v.v. Lợi dụng tình hình đó, các thế
lực thù địch, cơ hội chính trị, thậm chí một số cán bộ, đảng viên non kém về
bản lĩnh chính trị và sự nhạy cảm về chính trị muốn phủ nhận mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ cho rằng “chủ nghĩa xã hội là con đường
mù mờ, không có tương lai”, “đi vào ngõ cụt”, “đã bị lịch sử phủ định”; “ngày
xưa trong thời kỳ phong kiến đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà vẫn giữ được độc lập
dân tộc”, “lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Đảng”;
“chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu, nước mạnh”, v.v. Những
quan điểm trên đây không thể đứng vững được trước sự phê phán, bởi lý luận và
trước thực tế lịch sử.
Trong
thời kỳ trước đây, ở nước ta, các triều đại phong kiến tiến bộ đại diện cho dân
tộc đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước.
Khi đó chưa có chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới, chủ nghĩa xã hội được đặt ra về
lý luận khoa học khi chủ nghĩa Mác ra đời, về thực tiễn khi Cách mạng Tháng
Mười Nga (1917) thành công. Do đó, nếu đặt vấn đề chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong thời kỳ phong kiến là phi lịch sử và không thể dựa vào đó để phủ nhận con
đường xã hội chủ nghĩa của nước ta. Những quan điểm phủ nhận trên đã có cái
nhìn sai lệch về chủ nghĩa tư bản và xã hội chủ nghĩa, nó cường điệu những
thành tựu của chủ nghĩa tư bản mà không thấy hoặc coi nhẹ những khuyết tật, mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Hiện tại, chủ nghĩa tư bản vẫn còn tiềm năng phát
triển, nhất là về kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và
công nghệ, v.v.
Tuy vậy, về bản chất, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp
bức, bóc lột và bất công, dù có những điều chỉnh thích nghi. Những người phủ
nhận mục tiêu của cách mạng Việt Nam còn có cái nhìn định kiến với quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây ở một số nước. Họ đồng nhất chủ nghĩa xã
hội hiện nay với những khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội Xô - viết
trước đây, không thấy những thành tựu trong đổi mới, cải cách đang diễn ra ở
Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu Ba. Cần phải rõ rằng: sự sụp đổ của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu không phải là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa nói chung, mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình
chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội với những phẩm
giá tốt đẹp vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới; những giá trị
cao cả của nó vẫn tồn tại trong đời sống nhân loại. Điều này được minh chứng rõ
ở phong trào xã hội “cánh tả”, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang
từng bước phục hồi.
Thời gian gần đây xuất hiện trên internet và một số ấn
phẩm in, tán phát những quan điểm sai trái, như đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh
với chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Họ nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn dắt
dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “thể chế chính
trị ở Việt Nam hiện nay là độc đảng, toàn trị, đang kìm hãm tự do, dân chủ,
chia rẽ dân tộc,…”; họ yêu cầu “Việt Nam ngày nay phải chuyển đổi thể chế chính
trị từ toàn trị sang dân chủ”, v.v. Thực chất, họ muốn chúng ta phải thực hiện
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; Đảng phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của
mình, từ bỏ hệ tư tưởng Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa để chuyển
sang dân chủ tư sản, tức là từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
3. Nắm
vững và thực hiện có hiệu quả mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong tình hình mới.
Chúng
ta luôn kiên định và tiếp tục giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội, coi đó là định hướng quan trọng cho con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng. Tuy
nhiên, để thực hiện mục tiêu đó, Đảng cần phải đánh giá, dự báo một cách khách
quan tình hình thời cuộc, nhất là tình hình thế giới và trong nước cả thời cơ,
thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, ảnh hưởng trực tiếp đối với sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chúng
ta nhất trí với hệ thống phương hướng, giải pháp nêu trong các văn kiện Đại hội
XII của Đảng và làm rõ thêm một số vấn đề có tính nguyên tắc để tiếp tục khẳng
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn
mới, đó là:
- Phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt
Nam.
- Không ngừng đổi mới tư duy lý luận, làm rõ
cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
-
Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ
khoa học cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
-
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đối với sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến
lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Thực hiện đổi mới đồng bộ giữa kinh tế và
chính trị với những bước đi phù hợp.
-
Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh
gọn, hiệu lực, hiệu quả.
-
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
-
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, tiếp tục thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược.
- Phấn đấu nâng cao năng suất lao động, chất
lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
-
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế có đầu tư nước
ngoài.
-
Phát huy nhân tố con người cả về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng
lực làm việc.
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; giải
quyết tốt những vấn đề bức thiết, tăng cường quản lý xã hội, bảo đảm an sinh,
phúc lợi cho người dân.
-
Thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại; kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.
-
Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ
đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả.
- Giải quyết tốt quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
QUÁ HAY
Trả lờiXóa