Sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu làm cho CNXH lâm vào thoái trào, tổng kết
quá trình này để lại những bài học quý báu về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối
với công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Cách
mạng Tháng Mười Nga không chỉ có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng còn làm thay đổi tiến
trình lịch sử thế giới trong suốt thế kỷ XX và cho đến ngày nay. Tuy nhiên, sau
khi chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô phát triển với những thành tựu đỉnh cao
vào những năm 70 của thế kỷ trước thì CNXH bắt đầu lâm vào khủng hoảng. Sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu làm cho CNXH lâm vào thoái trào, tổng kết
quá trình này để lại những bài học quý báu về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối
với công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Sự
sụp đổ của Liên Xô là bài học quý báu cho các Đảng Cộng sản cầm quyền như Đảng
Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá". Quá trình "tự diễn biến" và "tự chuyển hoá"
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên được thể hiện qua sự phai nhạt lý tưởng cách mạng,
hoài nghi về chủ nghĩa Mác-Lênin, về chế độ; “cơ hội chính trị” dẫn đến “xét lại”,
bất mãn, chán ghét, thù địch và từ đó có những tư tưởng, hành động phản động,
chống đối Nhà nước.
Quá
trình đó chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Đó là sự tác động của các thế lực
thù địch với các phương cách, thủ đoạn thâm độc khác nhau; sự tác động từ mặt
trái của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, làm cho chủ nghĩa cá nhân về kinh
tế bùng phát trong điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn. Vị kỷ và thực dụng
làm cho nhiều cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, làm băng hoại các giá trị
truyền thống quý báu của dân tộc, ngày càng xa rời lý tưởng cách mạng.
Bên
cạnh đó là yếu tố xuất phát từ nội tại, đó là phương pháp lãnh đạo, quản lý của
Đảng, Nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu hợp lý và còn buông lỏng, yếu kém, tạo
điều kiện cho những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất lợi dụng, làm rối loạn
kỷ cương, gây thiệt hại cho quốc gia, dân tộc để làm lợi cho cá nhân bản thân
hay cho một nhóm nào đó.
Chính
lối tư duy mang tính nhiệm kỳ, lợi ích nhóm hình thành đã dẫn tới tình trạng
tham ô, tham nhũng không những không giảm mà còn có xu hướng tăng trong các cấp
chính quyền từ Trung ương cho tới địa phương. Nếu không chủ động phòng ngừa,
không ngăn chặn kịp thời thì cán bộ, đảng viên và quần chúng sẽ dễ bị tác động,
phân hoá, tạo ra những hiệu ứng tiêu cực về mặt tư tưởng chính trị.
Một
trong 6 nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội XII đã chỉ ra, đó là tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán
bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Tiếp
đến Hội nghị Trung ương 4 (Khoá XII) đã ra Nghị quyết về "tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện "tự chuyển biến", "tự chuyển hoá"
trong nội bộ", trong đó đã chỉ ra rất rõ 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị; 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
Cách
mạng Tháng Mười Nga đã lùi xa, sự sụp đổ của mô hình XHCN ở Liên Xô và các nước
Đông Âu đã để lại nhiều bài học đau thương, sự luyến tiếc, hoài niệm cho nhân
loại cần lao, xã hội tiến bộ trên toàn thế giới. Song giá trị của Cách mạng
Tháng Mười Nga, quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Liên bang Xô Viết để lại
những kinh nghiệm quý báu cho cách mạng Việt Nam. Một trong những bài học đó đồng
thời cũng là nguy cơ, thách thức lớn nhất đối với Đảng và chế độ là "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá". Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chúng ta cần:
Một
là, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đã làm nên
những thắng lợi vĩ đại cũng như quá trình đổi mới của cách mạng Việt Nam. Thường
xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực
nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc,
kiên định con đường chủ nghĩa xã hội.
Hai
là, sự lãnh đạo Đảng Cộng sản, giữ vững vai trò lãnh đạo
duy nhất và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề chiến lược có tính
nguyên tắc. Kế thừa thành quả cũng như bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng
Mười Nga và phát triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu
tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, thì xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng là nhân tố quyết định thắng
lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba
là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, sức mạnh của
quần chúng nhân dân là cội nguồn sức mạnh dân tộc. Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” của một bộ phận
cán bộ, đảng viên gây xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng và chế độ. Do vậy
xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt phải gắn liền phát triển kinh tế, xã hội,
văn hoá, môi trường bền vững, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, động lực của
sự phát triển. Khi niềm tin của Nhân dân được củng cố, vững chắc thì sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc mới được hội tụ và phát huy.
Bốn
là, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, nhất
là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, đủ phẩm chất đạo đức cách mạng
và đủ uy tín, được cán bộ đảng viên cơ sở, quần chúng suy tôn. Bên cạnh đó nâng
cao chất lượng kết nạp đảng viên, tránh khuynh hướng chạy theo số lượng mà coi
nhẹ chất lượng. Đây là vấn đề cốt lõi, then chốt trong công tác xây dựng tổ chức
đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Năm
là, nêu cao đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư", ngăn chặn “chủ nghĩa cơ hội”, khắc phục chủ nghĩa
cá nhân thực dụng, chống những biểu hiện cục bộ, địa phương, phe cánh, lợi ích
nhóm, nhằm đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực, làm trong sạch
đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, lấy lại niềm tin đối với Đảng, chế độ.
Sáu
là, lực lượng vũ trang, trong đó Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt đảm bảo độc lập chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; là vũ khí
sắc bén bảo vệ Đảng, chế độ, Nhà nước và nhân dân. Không thể xa rời tính chính
trị của lực lượng vũ trang. “Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang là bài học đắt
giá được rút ra từ sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét