Lịch sử cư trú của 54 tộc
người nước ta được chia thành 2 nhóm: nhóm các tộc
người tại chỗ (bản địa) và nhóm các tộc người thiên di đến Việt Nam.
- Các tộc người tại chỗ là những tộc người đã cư trú từ thời cổ đại ở Việt Nam, có quá trình phát triển liên tục từ thời kỳ
đồ đá mới cách đây 4-5 nghìn năm đến
nay. Các tộc người tại chỗ ở
nước ta thuộc ba nhóm ngôn ngữ: Việt - Mường, Môn - Khơme và Nam Đảo. Đồng bào cư trú từ Bắc Bộ vào đến Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường gồm: Việt, Mường, Thổ, Chứt. Nhóm này là
những cư dân tại chỗ lâu đời có vai trò quan trọng bậc nhất ở Việt Nam. Người
Việt - Mường cổ là chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn thế kỷ thứ VII
tr.CN, giữ vai trò chủ đạo thành lập nên nhà nước Văn
Lang thời Hùng vương.
Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme gồm: Ba-na, Xơ-đăng, Cơ-ho, Hrê, Mnông, Xtiêng, Bru - Vân Kiều,
Cơ-tu, Khơ-mú, Tà-ôi, Mạ, Co, Giẻ-Triêng, Xinh-mun,
Chơ-ro, Mảng, Kháng, Ơ-đu. Nhóm Môn - Khơme
phía Bắc có các tộc người: Kháng, Khơ-mú, Mảng,
Xinh-mun là
chủ thể miền núi Tây Bắc, Bắc Trung Bộ. Hầu hết các dân tộc phân bố ở Tây
Nguyên là cư dân tại chỗ như: Ba-na, Xtiêng, Mạ, Mnông, Chơ-ro…
Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo gồm: Gia-rai, Ê-đê, Chăm, Ra-glai, Chu-ru. Họ là
chủ nhân lâu đời ở Tây Nguyên và vùng Nam Trung Bộ.
Các tộc người tại chỗ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme và Nam Đảo đều có mặt ở Tây
Nguyên từ thời kỳ đồ đá mới cách đây 4-5 nghìn năm.
Ngoài ra, các tộc người Tày, Nùng ở miền núi phía Bắc vừa được coi là cư dân tại chỗ nước ta vừa là
cộng đồng thiên di đến. Bởi vào thế kỷ thứ III tr.CN, ở lưu vực sông Cầu,
sông Thương, sông Hồng, nước Âu Lạc ra đời với vị thủ lĩnh của người Âu Việt (Tày, Nùng cổ) là An Dương Vương Thục Phán (tiếng Tày - Nùng là Túc Phằn) trên cơ sở thống nhất hai bộ
phận cư dân Lạc Việt và Âu Việt. Từ thế kỷ XIII, các nhóm Nùng ở Trung Quốc
không chịu nổi chính sách phân biệt đối xử của
các triều đại phong kiến đã từng đợt di cư vào Việt Nam, hội nhập với các nhóm Tày
và Thái có mặt từ trước.
- Các tộc người di cư vào Việt Nam tập trung trong các nhóm ngôn ngữ Tày -
Thái, Hmông - Dao, Hán - Tạng.
Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái gồm: Tày, Thái, Nùng, Sán chay, Lào, Lự,
Giáy, Bố Y. Họ là các tộc người tại chỗ ở Nam Trung Quốc và Bắc Lào. Hầu hết, các dân tộc này di cư vào nước ta làm nhiều đợt theo hai hướng
từ phía Bắc xuống và từ phía Tây sang.
Nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao gồm: Hmông, Dao, Pà Thẻn
đều di cư từ Nam Trung Quốc vào Việt Nam khoảng từ thế kỷ XII đến nửa đầu thế
kỷ XX.
Nhóm ngôn ngữ Hán - Tạng gồm: Hoa (Hán), Sán Dìu,
Ngái, Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Lô Lô, Cống, Si La. Hầu hết các tộc người này đều thiên di từ
phía Bắc vào Việt Nam.
Ngoài ra, có 3 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn
- Khơme là: Khơ-me, Brâu, Rơ-măm đã di cư đến Việt Nam. Người Brâu có tổ tiên ở
Nam Lào và Đông Bắc Campuchia. Họ di cư đến nước ta khoảng 5 - 6 đời nay. Người
Khơ-me có mặt sớm nhất ở vùng Tây Nam Bộ nước ta kể từ thế kỷ VII sau CN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét