Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị
và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch
sử của đất nước ta; phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Như chúng ta đã biết, từ
năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ
thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Về chính
trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi
hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại bản
và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa
đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của
chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do
dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào
lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm. Về kinh tế, chúng triệt để khai
thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân
ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của
nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc
lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị
què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài. Về
văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch,
sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu, phục
tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc
địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn,
hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế
độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại
hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa
chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa
thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn
giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm
vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai
không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra,
cần được giải quyế.
Mặt khác, từ năm 1858 đến
trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo
nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa
Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân;
các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh
đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị
thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại
của các phong trào đấu tranh là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa,
các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển
của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường
lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu
tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta
lúc bấy giờ.
Giữa lúc cách mạng Việt
Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước
ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới,
vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng
tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội
Pháp. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng
của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.Lênin
và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp Người từng
bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng
của mình. Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải đáp
trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm ra con
đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”; xác định những vấn đề cơ bản của
đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xãhội, giai cấp vô sản phải nắm
lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong trào
cách mạng vô sản thế giới
Đối với Nguyễn Ái Quốc,
đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến
sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Sự kiện đó cũng
đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ViệtNam.
Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt
Nam. Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa;
nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người
cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp (1925). Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động
trong Quốc tế Cộng sản, tháng 1l-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc)
trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người
sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và
viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng
cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc
thành lập Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn
Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như''người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn''. Nó lôi cuốn những người yêu
nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu
tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở
thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có
tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được
thành lập:
Như vậy, chỉ trong một thời
gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố thành lập. Điều đó phản
ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đồng thời sự
tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy
cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần có một đảng
cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc - cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người
chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là người duy nhất có đủ năng
lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước.Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét