Khát vọng dân tộc có vai
trò rất quan trọng, nó là động lực trung tâm tạo nên sức mạnh vô song cho dân tộc.
Khát vọng dân tộc, nếu được định hướng và hình thành dựa trên những đường lối,
chủ trương đúng đắn sẽ trở thành nguồn năng lượng nội sinh tiềm tàng và sống động
cho toàn bộ quá trình phát triển. Khát vọng dân tộc thể hiện nhu cầu, ước vọng
của đại đa số cộng đồng cư dân trong một quốc gia và nó chịu sự tác động bởi
các điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Trong mỗi thời kì, mỗi
giai đoạn, khát vọng dân tộc sẽ được cụ thể hóa dựa theo những tiêu chí của nhà
quản lí. Như dưới thời kì phong kiến, sau khi đã dành được độc lập, tự chủ thì
khát vọng xây dựng xã tắc thái bình, thịnh trị là đích đến của các triều đại
phong kiến. Hay như ở thời điểm năm sau 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam được
thành lập thì lý tưởng của toàn thể dân tộc là xây dựng đất nước tiến theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khát vọng dân tộc giữ vai trò chủ đạo trong
giai đoạn này chính là độc lập và tự do. Sau khi thống nhất đất nước, để thực
hiện lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội, khát vọng dân tộc lại được Đảng, Nhà
nước cụ thể hóa dựa theo từng giai đoạn, từng lộ trình khác nhau. Đại hội VI,
năm 1986 của Đảng khẳng định “đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng,
là vấn đề có ý nghĩa sống còn”; Đại hội VII (1991) đề ra Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Đại hội VIII (1996) đề ra chủ
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp; Đại hội IX (2001) xác định kinh tế thị trường định
hướng xã hội là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, trong đó phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ
trung tâm; Đại hội X (2006) xác định mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển; Đại hội XI (2011) bổ sung phát triển Cương lĩnh 1991, quyết định
đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế;
Đại hội XII (2016) nhấn mạnh nâng cao chất lượng phát triển, sức cạnh tranh của
nền kinh tế, đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương khơi dậy
ở một tầm cao mới khát vọng phát triển đất nước Việt Nam “phồn vinh, hạnh
phúc”. Vậy, trong mối quan hệ với khát vọng dân tộc, sức mạnh niềm tin của nhân
dân sẽ được thể hiện như thế nào?
Niềm tin nhân dân có thể
được hiểu là sự tin tưởng, kỳ vọng của cộng đồng cư dân trong một quốc gia đối
với các chủ trương, chính sách xây dựng, phát triển đất nước của nhà quản lý.
Niềm tin nhân dân có vai trò rất quan trọng. Nó là nhân tố trung tâm quyết định
tinh thần đoàn kết của dân tộc; là động lực khai phóng các tiềm năng, các nguồn
lực của đất nước và là tiền đề vững chắc để hiện thực hóa khát vọng của dân tộc.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam sẽ là thực tế
sinh động nhất để minh chứng cho luận điểm này.
Trong suốt 1000 nghìn năm
Bắc thuộc, các thế lực phong kiến Trung Hoa luôn tìm cách Hán hóa dân tộc Việt
Nam. Song với sức mạnh của niềm tin về nòi giống “con rồng cháu tiên”, cộng đồng
cư dân Việt Nam đã kiên trì, bền bỉ đấu tranh để giữ vững lấy “hồn quốc”. Hình ảnh
người phụ nữ Việt Nam – Triệu Thị Trinh với câu nói đầy hào khí: “Tôi chỉ muốn
cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân
Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp
cho người”, như là một sự minh chứng cho tinh thần đấu tranh bất khuất và khát
vọng độc lập dân tộc trong giai đoạn này. Đầu thế kỉ X, nhà Đường suy yếu, Khúc
Thừa Dụ nhân cơ hội đem quân chiếm đóng thành Đại La (Tống Bình cũ – Hà Nội),
xưng Tiết Độ sứ. Ngày 7/2/906, vua Đường buộc phải chấp thuận vai trò của Tĩnh
Hải quân Tiết Độ sứ, đồng thời, phong thêm cho Ông tước “Đồng bình chương sự”.
Lịch sử dân tộc ghi nhận công lao của Ông như là người đầu tiên đặt cơ sở cho nền
độc lập, khai mở niềm tin cho quần chúng nhân dân về một tương lai tươi sáng của
nước Việt. Để rồi, năm 938, với sức mạnh của niềm tin và tinh thần đoàn kết một
lòng, nhân dân Việt Nam lại tiếp tục làm nên một trận Bạch Đằng giang vang dội,
mở ra thời kì độc lập, tự chủ cho đất nước.
Hội nghị Diên Hồng thời
Trần cũng chính là một minh chứng về sức mạnh của niềm tin và tinh thần vua –
tôi đoàn kết một lòng để 3 lần đánh bại quân xâm lược Nguyên – Mông, một trong
những đế chế hùng mạnh bậc nhất ở châu Á lúc bấy giờ. Hai chữ “Diên Hồng” đã trở
thành biểu trưng cho ý chí thống nhất của dân tộc, thể hiện sự đồng lòng nhất
trí và niềm tin son sắc giữa nước với dân. Dưới thời Lê, Lê Lợi và Nguyễn Trãi
được quân dân một lòng tin tưởng, thương mến, bởi tinh thần cai trị đất nước:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và ý chí kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung
tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Do vậy mà “Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần
trúc ngọn cờ phấp phới”, “Tướng sĩ một lòng phụ tử” để làm nên “cỗ nhung y chiến
thắng” trước quân Minh.
Từ nửa sau thế kỉ XVIII,
trước sự tranh chấp quyền lực của các tập đoàn phong kiến và những bất ổn của đời
sống xã hội, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ phất cờ khởi nghĩa. Với khí thế
và quyết tâm: “Đánh cho để dài tóc/Đánh cho để đen răng/Đánh cho nó chích luân
bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri, Nam quốc anh hùng chi
hữu chủ”, Nguyễn Huệ đã huy động được sức mạnh niềm tin của quần chúng nhân dân
để làm nên những chiến công vang dội tại Rạch Gầm – Xoài Mút, hay cuộc hành
quân thần tốc ra kinh đô Thăng Long để đập tan ý đồ xâm lược của quân Thanh, giữ
vững bờ cõi cho dân tộc, xóa bỏ tình trạng phân chia đất nước kéo dài trên hai
thế kỉ, lập lại nền thống nhất quốc gia.
Dưới thời Nguyễn, dù triều
đình khuất phục trước gót dày xâm lăng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, nhưng
quần chúng nhân dân Việt Nam với niềm tin và ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia,
dân tộc đã không ngần ngại đứng lên phản kháng sự cai trị, chiếm đóng của thực
dân Pháp. Với tinh thần “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì người Nam mới
hết đánh Tây” (Nguyễn Trung Trực), dù thất bại, nhưng các cuộc khởi nghĩa đã
cho thấy tinh thần, ý chí tự cường của nhân dân và đặc biệt là niềm tin vào sức
mạnh nội tại của dân tộc.
Cũng chính niềm tin vào sự
nghiệp độc lập, tự do của đất nước mà Nguyễn Ái Quốc đã bôn ba khắp “bốn bể,
năm châu” tìm kiếm con đường cứu nước, cứu dân. Trước vòng vây của chủ nghĩa thực
dân, phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (1930) và trở thành ngọn
cờ tiên phong trong các phong trào đấu tranh cách mạng. Trong những ngày đầu vô
cùng khó khăn ấy, niềm tin của nhân dân lại được khơi dậy để nuôi nấng, bao bọc,
chở che cho Đảng, cho lí tưởng mà toàn thể dân tộc hướng đến. Dù có không ít
người bị bắt bớ, giam cầm nhưng vẫn kiên quyết giữ vững lời thề sắt son theo Đảng.
Bởi với họ, một khi đã tìm được lí tưởng, niềm tin, tức là đã tìm thấy được sức
mạnh, tìm được điểm tựa tinh thần và động lực cho cuộc sống. Lý tưởng ấy đã soi
sáng niềm tin cho nhân dân, mà nòng cốt là giai cấp công nhân và nông dân hăng
hái bước vào cuộc đấu tranh, làm nên các cao trào cách mạng (1930 – 1931; 1936
– 1939).
Sức mạnh niềm tin của
nhân dân tiếp tục được phát huy mạnh mẽ hơn trong các phong trào đấu tranh
giành chính quyền những năm 1939 – 1945. Với niềm tin vào sự thắng lợi trọn vẹn
và ý chí quyết tâm “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, “Dù phải hi sinh tới
đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập”, toàn thể dân tộc Việt Nam đã làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xóa bỏ
xích xiềng phong kiến, thực dân.
Sau cách mạng tháng Tám,
đất nước đứng trước vô vàn những khó khăn thử thách “ngàn cân treo đầu sợi
tóc”, nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch, Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã có những chủ trương, đường lối đối nội, đối ngoại thiết
thực để củng cố tình hình đất nước, phát huy sức mạnh niềm tin của nhân dân.
Đáp lời hiệu triệu của cách mạng, hơn 20 triệu đồng bào đã đoàn kết một lòng cùng
nhau thắt lưng, buộc bụng để “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”, hăng hái tham gia “tuần lễ vàng”, “quỹ độc lập”, thực hiện phong trào
“tăng gia sản xuất”, “bình dân học vụ” và đoàn kết thống nhất để chống thù
trong giặc ngoài. Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi (1954) đã chính thức khép
lại giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp hào hùng của dân tộc. Đồng thời,
thắng lợi này cũng đã minh chứng một chân lý mà các dân tộc bị áp bức trên thế
giới đều có thể tin tưởng rằng: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nếu có một
đảng mác xít chân chính lãnh đạo với đường lối chính trị, quân sự đúng đắn,
phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ
thì nhất định đánh bại được các cuộc chiến tranh xâm lược của mọi kẻ thù.
Sau năm 1954, miền Bắc
quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam bước vào cuộc kháng chiến chống
Mĩ. Khát vọng độc lập dân tộc, sức mạnh niềm tin nhân dân tiếp tục được Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” và
“Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Với
tinh thần: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, và “dù khó khăn, gian khổ đến mấy,
nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi
nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất”… cả nước, triệu người như một đều
nhất loạt đứng lên đấu tranh để bảo vệ quê hương, xóm làng. Từ phong trào Đồng
Khởi (1960), Điện Biên Phủ trên không (1972), đến Đại thắng Mùa xuân năm 1975,…
tất cả những thắng lợi vang dội ấy đều được tạo nên bởi sức mạnh của niềm tin,
bởi truyền thống của một dân tộc vốn đất không rộng, người không đông, vũ khí
trang bị chưa hiện đại nhưng với ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết, đồng sức,
đồng lòng đã đánh thắng một đế quốc to, quân đông, vũ khí trang bị hiện đại.
Sau khi thống nhất đất nước, cả nước quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh niềm tin của nhân dân tiếp tục được huy động cho công cuộc đổi mới. Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố. Tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng – an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững. Vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đặc biệt, trong năm 2020, dù gặp phải rất nhiều khó khăn do tình hình COVID-19, nhưng Việt Nam vẫn thực hiện thành công nhiệm vụ “kép” đầy ấn tượng trong phòng chống đại dịch và phát triển kinh tế. Việt Nam là một trong ít quốc gia duy trì tăng trưởng dương trên thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2020 đạt 2,91%.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét