Thứ Ba, 18 tháng 5, 2021

QUỐC HỘI NGÀY CÀNG PHÁT HUY VAI TRÒ LÀ CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CAO NHẤT

Quốc hội khoá I - Quốc hội ra đời từ lòng dân, bao gồm đầy đủ các tầng lớp, các giới, các đảng phái chính trị ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam, gồm 333 đại biểu (trong đó, Bắc Bộ có 152 đại biểu, Trung Bộ có 108 đại biểu, Nam Bộ có 73 đại biểu). Cùng với 70 đại biểu không thông qua bầu cử, Quốc hội khoá I có 403 đại biểu, với đầy đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các nhà tư sản, người buôn bán… là hình ảnh tượng trưng cho khối toàn dân đoàn kết, minh chứng hùng hồn cho việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của nhân dân.

Theo quy định, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được gọi là Nghị viện nhân dân có nhiệm kỳ là 3 năm (Điều 24, Hiến pháp 1946) và Quốc hội có nhiệm kỳ 4 năm (Điều 45, Hiến pháp 1959). Tuy nhiên do điều kiện chiến tranh kéo dài, vì vậy cuộc bầu cử Quốc hội khoá II (ngày 8/5/1960), khoá III (ngày 26/4/1964), khoá IV (ngày 11/4/1971) và khoá V (ngày 6/4/1975) chỉ được tiến hành ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thực tế là, dù chỉ bầu cử ở miền Bắc, song Quốc hội khoá II, III, IV, V vẫn là cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân cả nước, bởi số đại biểu miền Nam vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ trong Quốc hội. Quyết định lưu nhiệm các đại biểu Quốc hội miền Nam do nhân dân cả nước bầu ra trong Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 thực sự là biểu tượng của sự đoàn kết, nhất trí toàn dân tộc, kiên trì vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Từ cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I cho đến ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng (1946 -1975), đất nước ta đã trải qua nhiều biến cố và Quốc hội cũng đã nhiều lần được bầu lại. Nhiệm vụ chính trị của Quốc hội ở mỗi thời kỳ tuy có khác nhau, song đó vẫn thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói, dù ở vào giai đoạn lịch sử nào của đất nước, Quốc hội cũng đều thể hiện rõ chức năng “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”, “cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”...

Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 đã trao cho Quốc hội những quyền hạn và nhiệm vụ rộng lớn, thể hiện tập trung quyền của nhân dân lao động. Những quyền đó được ghi thành văn, với các điều kiện bảo đảm thực hành như mọi nền dân chủ đạt trình độ cao trên thế giới.

Sau thắng lợi của cuộc Tổng tiến công mùa xuân năm 1975, một đất nước Việt Nam hoà bình, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội đã đặt ra cho Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân những trọng trách mới. Nhiệm vụ mới đòi hỏi Quốc hội phải có một cơ cấu phản ánh được tính chất toàn dân tộc. Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc, ngày 21/11/1975 đã nhất trí nhận định: cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước cùng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Hội nghị nhất trí khẳng định việc cần thiết phải tổ chức Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu Quốc hội chung cho cả nước, vì: Thực hiện thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước là khâu then chốt, nó tạo điều kiện để thống nhất nước nhà về các mặt khác một cách thuận lợi. Hội nghị không chỉ đạt được sự nhất trí cao về chủ trương, phương hướng mà còn đề ra những biện pháp cụ thể để thực hiện ý nguyện của toàn dân - đó là tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội cho một nước Việt Nam thống nhất. Theo quyết định, “cuộc Tổng tuyển cử sẽ tiến hành trong nửa đầu năm 1976, theo đúng nguyên tắc dân chủ: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Số đại biểu Quốc hội sẽ tính theo số dân. Khoảng 100.00 dân sẽ được bầu 1 đại biểu”.

Từ tháng 2/1976, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tiến tới Tổng tuyển cử được triển khai trong phạm vi cả nước. Ngày 25/4/1976, trong niềm vui chung “Bắc Nam sum họp một nhà, non sông liền một dải”, nhân dân cả nước đã tham gia cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá VI của nước Việt Nam thống nhất. Đây là lần thứ hai cuộc Tổng tuyển cử đước tiến hành trong cả nước, sau 30 năm kể từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (6/1/1946). Hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đã đi bầu cử và bầu được 492 đại biểu vào Quốc hội khoá VI của nước Việt Nam hoà bình, thống nhất. Với 492 đại biểu, trong đó (có 80 người là công nhân, 100 người là nông dân, 6 người là tiểu thủ công nghiệp, 54 người là chiến sĩ quân đội nhân dân, 141 người là cán bộ chính trị, 98 người là trí thức và nhân sĩ, 13 người là các thành phần tôn giáo), Quốc hội khoá VI là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước.

Tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của nước ta. Lịch sử dân tộc ta đã chuyển sang một bước ngoặt vĩ đại. Trong kỷ nguyên mới của đất nước, Quốc hội khoá VI tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tuởng, kinh tế, văn hoá, xã hội gắn với việc thực hiện những nhiệm vụ của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Thực hiện khát vọng của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, nhân dân cả nước quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Tiếp tục một cách xứng đáng những thành tựu, những bài học kinh nghiệm của Quốc hội các khóa I, II, III, IV, V, Quốc hội khoá VI - Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất đã trở thành nhân tố quan trọng trong hệ thống chính trị của đất nước để tổ chức nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991), khi Đảng tuyên bố xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì vị trí, vai trò của Quốc hội ngày càng tăng lên mạnh mẽ. Điều này không chỉ dừng ở việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử Quốc hội ở các khoá (từ khóa VII đến khóa XIV và chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa XV vào ngày 23/5/2021 sắp tới) mà còn thể hiện ở việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trên nhiều mặt. Cùng với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và gần nhất là Hiến pháp 2013, việc ban hành nhiều văn bản pháp luật thiết thực, phù hợp với nhu cầu của thực tiễn, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng các luật; đổi mới các hoạt động giám sát để tăng cường hiệu lực, hiệu quả; chủ động xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đồng thời, tăng cường các hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Quốc hội với Quốc hội các nước, các tổ chức quốc tế vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển… đã làm cho Quốc hội ngày càng thể hiện rõ vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Nhìn lại quá trình ra đời và phát triển của Quốc hội, có thể thấy rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đặc biệt quan tâm đến cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I mà trong các kỳ bầu cử tiếp theo, Người cũng chú trọng việc bầu cử để thành lập cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân. Thực hiện theo tư tưởng của Người, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Quốc hội Việt Nam cũng hoạt động ngày càng hiệu quả để làm tròn một cách vẻ vang nhiệm vụ là những người đại biểu của nhân dân, thực sự hết lòng vì dân, vì nước; được nhân dân, cử tri cả nước tín nhiệm và đồng tình ủng hộ.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội Việt Nam đã không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, thực hiện tốt chức năng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Truyền thống đoàn kết, vì dân, vì nước của Quốc hội khoá I do Chủ tịch Hồ Chí Minh hết lòng chăm lo xây dựng và phát triển đã đưa kháng chiến đến thắng lợi thì nhất định vẫn sẽ là một trong những nhân tố quan trọng để Quốc hội Việt Nam khóa XIV và các khóa tiếp theo đồng hành cùng dân tộc, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phát triển phồn vinh và hạnh phúc.

2 nhận xét:

  1. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội Việt Nam đã không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, thực hiện tốt chức năng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    Trả lờiXóa