Trước sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên
thế giới, một
số hạn
chế, yếu kém trong
quá trình, cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại và sự phát triển, “điều chỉnh”,
“thích nghi” của chủ nghĩa tư bản hiện đại... thì một
số người nêu ra quan điểm chủ
nghĩa xã hội là không tưởng, bởi:
Thứ nhất, nó
được “dựng” nên từ “một hệ thống triết học tư biện” chứ không phải từ hiện thực
khách quan.
Thứ hai, sẽ
không thể có một xã hội hoàn hảo như chủ nghĩa Mác - Lênin đặt ra. Luận điểm
này cho rằng “Chủ nghĩa Mác là một giấc mơ về xã hội không tưởng. Nó đặt niềm
tin vào một xã hội hoàn hảo, không có khổ cực, đau buồn, bạo lực và mâu thuẫn”.
Xã hội tương lai của Mác, theo họ là một xã hội tốt đẹp nhưng không thể thực hiện
được vì trong thực tế cuộc sống có nhiều bất trắc, rủi ro không thể lường hết
được.
Thực
chất, quan điểm này đã đồng nhất một số phác thảo của các nhà kinh điển về xã hội
tương lai với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phát triển đầy đủ.
Vậy chủ nghĩa xã hội có phải là
ảo tưởng? Chắc chắn là không vì:
Một là, chủ nghĩa xã hội dựa trên quan điểm của học thuyết
Mác không phải là “hệ thống tư biện”, không phải là phi hiện thực khách quan mà
là hiện thực trên thực tế
Thứ nhất, học thuyết Mác
về chủ nghĩa xã hội không phải là “hệ thống tự biện”, vì
trong khoa học, để tìm ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng thì không
chỉ nghiên cứu một sự vật, hiện tượng cụ thể mà phải thông qua nhiều sự vật, hiện
tượng từ đó tìm ra các thuộc tính chung nhất của nó. Do đó, bất kỳ nghiên cứu
khoa học nào cũng cần đến thuộc tính trừu tượng hóa, khái quát hóa. Nghiên cứu
lịch sử phát triển nhân loại, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hay những yếu
tố cấu thành của phương thức sản xuất tư bản cũng không thể không trừu tượng
hóa những đối tượng ấy. vấn đề đặt ra là, sự trừu tượng hóa ấy có phản ánh đúng
bản chất, quy luật của hiện thực khách quan không. Nếu phản ánh đúng bản chất,
quy luật, chúng ta có cơ sở khoa học để dự báo sự vận động phát triển của nó,
ngược lại nếu phản ánh sai sẽ có dự báo sai sự vận động, phát triển của sự vật.
Do vậy, học thuyết Mác không phải là “tư biện”.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội dựa
trên học thuyết Mác ra đời xuất phát từ “mảnh đất hiện thực” khách quan
Học thuyết Mác ra đời dựa
trên những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của châu Âu từ khi chủ nghĩa tư bản
ra đời và những tiền đề văn hóa, tư tưởng của nhân loại đạt được trong suốt chiều
dài lịch sử cho đến thời đại của các ông. Với sự uyên bác về trí tuệ, sự gắn bó
mật thiết với phong trào công nhân ở khắp các nước châu Âu, với thiên tài trong
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm ra được quy luật
vận động của xã hội loài người, đặc biệt là quy luật vận động của chủ nghĩa tư
bản thông qua ba phát hiện vĩ đại: Học thuyết về hình
thái kinh tế - xã hội, học thuyết về giá trị thặng dư và sau này (như Lênin đã
bổ sung) là học thuyết về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Đến
thời đại của mình, V.I.Lênin đã bảo vệ, bổ sung, phát triển học thuyết Mác về
chủ nghĩa xã hội dựa trên việc nghiên cứu “mảnh đất hiện thực” của chủ nghĩa tư
bản đã chuyển sang thời kỳ đế quốc, bộc lộ tất cả các mặt “thối nát” của chúng
và thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động chống
chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa trên khắp các châu lục đặc biệt là thực
tiễn của nước Nga lúc đó.
Thứ ba, chủ nghĩạ xã hội đã và đang là
hiện thực của lịch sử nhân loại.
Từ một
nước tư bản phát triển ở trình độ lạc hậu so với châu Âu đương thời, Liên bang
xã hội chủ nghĩa Xô-viết đã mau chóng vươn lên trở thành một siêu cường. Những thành
công vĩ đại mà Liên Xô đã đạt được trên mọi phương diện của đời sống xã hội và
trong sự nghiệp cứu nhân loại thoát khỏi thảm họa phát xít trong chiến tranh thế
giới thứ hai là một thực tế hào hùng không thể phủ nhận.
Cũng chính vì thế mà chỉ
hơn 40 năm sau đó, chủ nghĩa xã hội hiện thực từ một nước đã phát triển thành một
hệ thống thế giới, có mặt tại ba châu lục lớn là châu Âu, châu Á và châu Mỹ
Latinh đã góp phần làm thay đổi cơ bản số phận của nhiều quốc gia - dân tộc, của
hàng tỉ người dân trên toàn thế giới. Chỉ tính riêng tại Liên Xô, qua hơn 50
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân Liên Xô đã giành được nhiều thành tựu
to lớn trên mọi lĩnh vực: về kinh tế, trở
thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới (sau Mỹ), sản lượng công nghiệp chiếm
20% tổng sản lượng công nghiệp thế giới...; về
khoa học kỹ thuật, năm 1957, là quốc gia đầu tiên phóng
thành công vệ tinh nhân tạo, năm 1961, phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành Gagarin
bay vòng quanh trái đất mở ra kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người...; về
xã hội, năm 1971 giai cấp công nhân chiếm khoảng 55% tổng
lao động xã hội, hơn 50% số người ả nông thôn có trình độ từ trung học trở lên...
Đó hoàn toàn không phải là “giấc mơ” cũng chẳng phải là “thiên đường” mà đó là
hiện thực khách quan của lịch sử nhân loại.
Cho
đến nay, mặc dù hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực thế giới đã tan rã, nhưng
không ai có thể phủ nhận sự tồn tại khách quan và những ưu việt của nó.
Hai
là, sự để vỡ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, không có nghĩa
là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội.
Sự đổ vỡ này là do sai lầm
của những người lãnh đạo đứng đầu của Đảng cộng sản ở các quốc gia nêu trên và
sự phản bội của một số kẻ cơ hội bên trong kết hợp với những
kẻ thù địch từ bên ngoài.
Các ông chỉ rõ: muốn cho
chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học thì phải đặt nó đứng vững trên mảnh đất hiện
thực; từ khi nó trở thành khoa học thì phải đối xử với nó như mọi khoa học. Nó
tất yếu phải thường xuyên biến đổi, phải đổi mới và phát triển. Một cách nhìn động
chứ không tĩnh, mở chứ không khép kín về chủ
nghĩa xã hội do Mác - Ăngghen nêu ra là phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Vậy nên, áp dụng một cách rập
khuôn, máy móc các nguyên lý đó là trái với tinh thần của Mác. Bởi vậy, chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu với những hạn chế của nó chỉ là một mô
hình của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa, mô hình này lại phản ánh không đầy đủ, thiếu
sáng tạo những ý tưởng của học thuyết Mác - Lênin.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét