Thứ Tư, 6 tháng 12, 2017

Đặc điểm kinh tế truyền thống của các tộc người thiểu số ở nước ta

- Các tộc người có trình độ phát triển kinh tế không đồng đều.
Nhóm tộc người thiểu số còn bảo lưu yếu tố kinh tế nguyên thủy, cư trú ở miền núi vùng cao, vùng sâu, vùng xa; gồm những tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơme ở Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Trường Sơn - Tây Nguyên; nhóm Hmông - Dao, Hán - Tạng ở vùng núi phía Bắc. Hoạt động kinh tế của nhóm này cơ bản là sản xuất nương rẫy du canh; công cụ sản xuất khá thô sơ, năng suất thấp. Săn bắn hái lượm đóng vai trò khá quan trọng trong đời sống kinh tế.
Nhóm tộc người cư trú lâu đời ở chân núi, thung lũng như Tày, Nùng, Thái, Mường...; canh tác lúa nước là chính, kết hợp với sản xuất nương rẫy; sản xuất và sinh hoạt định canh định cư, trình độ thâm canh của khá cao, canh tác bằng sức kéo; trao đổi thương mại diễn ra trong cộng đồng và khu vực.
Nhóm các tộc người là cư dân ở đồng bằng như Việt, Chăm, Khơme, Hoa, có nền văn minh lúa nước lâu đời, kỹ thuật thâm canh cao, kinh nghiệm sản xuất phong phú. Các hoạt động chăn nuôi, thủ công, trao đổi thương mại đều sớm phát triển hơn; đời sống kinh tế đa dạng về cơ cấu ngành nghề, vật nuôi cây trồng.
- Kinh tế truyền thống tộc người mang nặng tính tự cung, tự cấp của nền kinh tế tự nhiên.
Các tộc người sản xuất chủ yếu để đáp ứng nhu cầu tự túc lương thực, thực phẩm và phục vụ đời sống sinh hoạt tại chỗ. Trong các hình thái kinh tế - xã hội tiền tư bản, trình độ sản xuất lạc hậu, cơ sở hạ tầng kinh tế yếu kém nên đồng bào các dân tộc sản xuất trước hết nhằm phục vụ nhu cầu của gia đình, làng bản; tập trung vào sản xuất lương thực, chủ yếu là lúa gạo, hoa màu như ngô, khoai, sắn, kê, rau, đậu… nhằm tự túc lương thực, đảm bảo bữa ăn hàng ngày và một phần tích trữ.
Ở miền núi và vùng dân tộc, dù có giao thương nhưng hoạt động kinh tế còn khép kín, mang tính nội bộ làng bản. Các sản phẩm nông nghiệp của các dân tộc nghèo nàn và chất lượng thấp. Giao thông đi lại khó khăn đã hạn chế việc trao đổi và giao lưu kinh tế. Ở miền xuôi, giao lưu kinh tế đã vượt ra ngoài quy mô làng xã, song cũng chỉ ở mức độ nhất định.
- Kinh tế các tộc người dựa trên nền tảng nông nghiệp nhiệt đới gió mùa.
 Các tộc người sống trên lãnh thổ nước ta đều cùng chung hệ sinh thái nhiệt đới, đời sống kinh tế dựa trên nền tảng nông nghiệp nhiệt đới gió mùa, trồng trọt là chính, chăn nuôi là nghề phụ; hái lượm nổi trội hơn so với săn bắn, đánh cá. Mỗi tộc người đã tích lũy được những tri thức sản xuất nông nghiệp thích hợp với điều kiện tự nhiên khu vực nhiệt đới gió mùa. Có nhiều cây trồng, vật nuôi chính giống nhau, kinh nghiệm sản xuất khá tương đồng; lúa là cây trồng chủ đạo. Đồng bào miền núi thường canh tác lúa nương, sáng tạo ra nền văn hóa nương rẫy. Các tộc người ở vùng chân núi và đồng bằng có nền nông nghiệp lúa nước, văn hóa lúa nước phát triển.
- Đời sống kinh tế mang bản sắc văn hóa tộc người độc đáo.

Bản sắc văn hóa tộc người trong đời sống kinh tế thể hiện đa dạng ở tất cả các hoạt động kinh tế của từng tộc người từ phương thức canh tác, kỹ thuật, biện pháp sản xuất, tri thức, kinh nghiệm, cách thức tổ chức sản xuất, công cụ sản xuất, giống cây trồng vật nuôi, các sản phẩm làm ra… Các nghề và sản phẩm thủ công mang dấu ấn tộc người nổi bật: nghề rèn của người Hmông, nghề dệt của người Thái, nghề đan lát của người Khơ mú... Đời sống kinh tế tộc người còn phản ánh sắc thái tộc người trên các lĩnh vực văn hóa; là nền tảng tồn tại và phát triển của tộc người, phản ánh truyền thống tộc người. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét