Không
còn nghi ngờ gì rằng sự sụp đổ bất ngờ và nhanh chóng của siêu cường Xô- Viết
sau hơn 7 thập kỷ tồn tại đã giáng một đòn nặng nề không chỉ vào mô hình phát
triển của Liên Xô và các nước XHCN, mà vào chính học thuyết Mác- Lênin và hệ tư
tưởng XHCN. Sự đổ vỡ này xảy ra ngay tại Liên Xô- quê hương của cách mạng tháng
Mười, nơi khai sinh ra nhà nước Marxit – Lêninit đầu tiên trên thế giới, thành
trì của CNXH và phong trào cộng sản quốc tế khiến cho uy tín của chủ nghĩa Mác-
Lênin cũng như lòng tin của các tầng lớp xã hội vào sức mạnh khoa học của học
thuyết này bị tổn hại nghiệm trọng.
Chính vì lẽ đó, thập niên 1990 đánh dấu sự bùng nổ các bài viết, công trình phê
phán chủ nghĩa Mác- Lênin, bác bỏ từng phần hay toàn bộ học thuyết này. Thậm
chí có không ít bài viết bôi nhọ cá nhân C.Mác, Lênin và các lãnh tụ của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thông qua đó nhằm “hạ bệ” uy
tín của học thuyết mà các ông đã sáng tạo ra. Biểu hiện rõ ràng nhất là sự giảm
sút số lượng những người trung thành với học thuyết này trên toàn thế giới. Xu
hướng “phi marxit hóa”, phân rã về tư tưởng, ly khai với học thuyết
Mác- Lênin trỗi dậy mạnh tại hàng loạt nước từng đi theo con đường XHCN, cũng
như trong nội bộ các đảng cộng sản, các đảng xã hội chủ nghĩa và phong trào
công nhân quốc tế. Mặt khác, mặc dù sự sụp đổ của Liên Xô, các nước XHCN Đông
Âu khiến cho các trào lưu quan điểm chống cộng mất đi mục tiêu công kích chính,
ít nhiều bị mất phương hướng, giảm bớt mức độ điên cuồng như trong thời kỳ Chiến
tranh Lạnh, nhưng lại kích thích chúng thay hình đổi dạng, chuyển sang các chủ
đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, nhằm gây rối tình hình, kích động các
cuộc “cách mạng màu” tại các nước vẫn do các đảng cộng sản và cách tả
nắm quyền. Không ít tổ chức NGO về nhân quyền, tự do tôn giáo trở thành công cụ
truyền bá các quan điểm này, thực hiện “diễn biến hòa bình”, xúi giục “tự
diễn biến”, gây bạo loạn lật đổ.
Thứ
nhất, nhiều học giả phương tây, cả cánh tả và cánh hữu, từ tân bảo thủ đến
tân tự do, tin rằng sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đặt dấu chấm hết đối với
chủ nghĩa Mác- Lênin sau hơn 150 năm tồn tại. Đại diện cho quan điểm này là triết
gia tân bảo thủ Francis Fukuyama với công trình nổi tiếng “Sự cáo chung của
lịch sử và người cuối cùng”xuất bản năm 1992, trong đó cho rằng cùng với sự kết
thúc của Chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của bức tường Berlin thì cuộc đấu tranh
giữa các hệ tư tưởng như là động lực của sự tiến bộ nhân loại đã đến hồi kết với
thắng lợi cuối cùng thuộc về nền dân chủ tự do và chủ nghĩa tư bản thị trường.
Cuộc tấn công của các quan điểm tự do và tân bảo thủ không
chỉ dừng ở việc cho rằng thất bại của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu chính
là sự “thất bại” của học thuyết của Mác và Lênin, mà còn nhằm chứng
minh sự phá sản của nền tảng lý luận Mác-Lênin. Một mặt, phái “Shumpeter
mới” phê phán rằng, học thuyết này chỉ thấy được
khía cạnh “phá hủy” của CNTB, mà không thấy được khả năng “sáng
tạo” của nó trong vòng chuyển động không ngừng của “sự phá hủy mang
tính sáng tạo”. Một số học giả cho rằng, Mác và Lênin đã không lường trước
được khả năng thích nghi, tiến hóa của CNTB, chẳng hạn trong việc giải quyết
mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa tư bản và lao động. Mặt khác, họ cho rằng, học
thuyết này đã chỉ ra con đường sai lầm để thoát khỏi CNTB, chẳng những không dẫn
đến CNXH , mà còn đưa tới một chế độ “toàn trị độc đoán”, hay nói như
học giả tân tự do hàng đầu Friedrich F.Hayek là dẫn tới “chủ nghĩa nô lệ”.
Trên thực tế, trong giai đoạn này, các nước TBCN đứng đầu là Mỹ đã có bước phát
triển lớn, vượt qua được các cuộc khủng hoảng dầu lửa thập niên 1970, khủng hoảng
nợ thế giới thập niên 1980, đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học- công nghệ lần
thứ 3 hay còn gọi là cách mạng tin học và khuấy động một cao trào toàn cầu hóa
mới có tác động lôi kéo ngày càng nhiều các nước trên thế giới tham gia. Mô
hình phát triển dựa vào chủ nghĩa tự do mới dường như trở nên lấn át, từ thập
niên 1990 thậm chí còn “vượt mặt” cả mô hình nhà nước phúc lợi rất phổ
biến ở Tây Âu và mô hình nhà nước phát triển của Nhật Bản. Tại các nước TBCN,
các thế lực tân tự do và tân bảo thủ đồng loạt thắng cử và nắm quyền, trong khi
các tổ chức công đoàn suy yếu, phúc lợi xã hội bị cắt giảm. Theo sự quả quyết của
học giả Mỹ Stephan Walt, chủ nghĩa Mác- Lênin đã sai lầm khi cho rằng các nước
TBCN không thể tránh khỏi chiến tranh, trong khi xung đột lại luôn nổ ra giữa
các nước trong phe XHCN.
Thứ
hai, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu cũng kích thích cuộc đấu tranh tư tưởng
ngay trong lòng các đảng cộng sản do sự trỗi dậy của hàng loạt các quan điểm mạo
danh Marxit – Lêninnit, kêu gọi bảo vệ học thuyết này, nhưng thực chất gây nghi
ngờ, chia rẽ, xói mòn cơ sở lý luận Mác- Lênin. Không thể phủ nhận rằng, thất bại
của mô hình phát triển của Liên Xô và các nước XHCN đã chứng tỏ một số luận điểm
quan trọng như chuyên chính vô sản, kế hoạch hóa tập trung, tổng khủng hoảng của
CNTB,… đã không còn phù hợp trong điều kiện mới. Nhưng cũng chính điều này lại
khiến cho một số người, cả vô tình lẫn cố ý, quay sang phủ nhận tính khoa học của
toàn bộ hệ thống lý luận Mác- Lênin.
Đầu tiên phải kể đến quan điểm của phái trotskyist mới (neo- trotskyism) cho
rằng CNXH hiện thực được xây dựng ở Liên Xô hơn 70 năm qua và các nước Đông Âu
từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, cũng như ở Trung Quốc và Việt Nam trước cải
cách đổi mới, hoàn toàn xa lạ với các nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác-
Lênin và thực chất là các phiên bản khác nhau của chủ nghĩa toàn trị của
Stalin. Một đại diện của phái này là Alex callnicos (1999) còn cho rằng, sự sụp
đổ của Liên Xô hoàn toàn không phải là sự thất bại, mà trái lại có thể xem
như “thắng lợi” của chủ nghĩa Mác- Lênin, vì cái bị phủ định chính là
chủ nghĩa Stalin, trong đó chuyên chính của giai cấp vô sản đã bị đánh tráo bởi
chuyên chính của bộ máy quan liêu. Những người cực tả (ultra- left) cũng
cùng quan điểm như vậy, nhưng cho rằng mô hình phát triển của Liên Xô và các nước
Đông Âu xây dựng là một kiểu CNTB nhà nước, không liên quan gì với chủ nghĩa
Mác- Lênin, còn sự sụp đổ của các nước này chính là do đã không tuân theo các
chỉ dẫn của Mác ngay từ đầu. Có vẻ những quan điểm này đã cố tình phủ nhận tính
thống nhất của chủ nghĩa Mác- Lênin, thậm chí vu cáo chủ nghĩa Mác- Lênin đã xa
rời các mục tiêu XHCN.
Theo phái marxit mới, động lực chính gây sụp đổ Liên
Xô chính là giới tinh hoa nắm đặc quyền, đặc lợi ở nước này. Quan
điểm này lý giải rằng, khi chế độ chính trị ở Liên Xô không còn đảm bảo an toàn
cho địa vị của giới tinh hoa, thì những người này tìm cách thay đổi chế độ, tiến
hành tư hữu hóa các tài sản của đất nước nhằm chuyển đổi đặc quyền, đặc lợi
thành các tài sản tư nhân để tiếp tục duy trì địa vị lũng đoạn của họ. Bất chấp
việc thổi phồng vai trò của giới tinh hoa, quan điểm này đã phần nào phản ánh
đúng tình trạng tham nhũng khá phổ biến ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước khi
sụp đổ.
Những người cánh tả theo quan điểm hậu marxit tìm
cách rủ bỏ khỏi chủ nghĩa Mác các quan điểm của Lênin, cho rằng mô hình xây dựng
CNXH ở một nước riêng lẻ có trình độ phát triển lạc hậu bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN mà Lênin đặt nền móng ở nước Nga tuy là một trong số nhiều lý luận
khác nhau phân nhánh từ chung một gốc là học thuyết của Mác, nhưng đã chệch hướng
khỏi các nguyên lý Marxit cơ bản. Vì thế, thất bại của mô hình do Lênin chủ xướng
chỉ mang tính cục bộ, khu biệt, trong khi các nhánh lý luận Marxit khác vẫn có
thể tiếp tục phát triển ở nhiều nước Tây Âu, Châu Á, Mỹ Latin…
Có thể nói, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã thách thức nghiêm
trọng nền tảng lý luận và cơ sở xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin, gây hoài nghi
về tính khoa học của học thuyết này, cũng như mất phương hướng về tư tưởng
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét