Hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam bao gồm nhiều đảo đá san hô ở giữa Biển Đông. Hiện
hai quần đảo này đang là tâm điểm cạnh tranh phức tạp giữa một số nước ven Biển
Đông. Về việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, luật pháp quốc tế
đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự và
thực hiện quyền lực Nhà nước một cách liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã
được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ
tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên thế giới.
Đối với Việt Nam, mặc
dù phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, nhiều tài liệu, thư tịch cổ
đã bị thất lạc, mất mát, song những tư liệu còn lại và chính sử vẫn đủ để khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một
là,
các bản đồ Việt Nam thế kỷ thứ XVII đã gọi hai quần đảo này bằng tên gọi"Bãi Cát Vàng" và
ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi
Hai
là,
nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ
XVII); Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848); Đại Nam Nhất Thống
Chí (1865 – 1875); các Châu bản nhà Nguyễn
(1802 - 1845) … đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát
Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các
quần đảo này
Ba
là,
nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Bằng chứng rõ nét nhất
là vào năm 1816, khi Vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt
Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần làm rõ thêm rằng, trong một thời gian dài,
người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một dải đảo dài hàng
vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi nó là Vạn lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa …
Trên thực tế, các chúa Nguyễn cũng nhứ nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động
liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải
để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo này.
Khi Pháp xâm lược Việt Nam, về mặt đối ngoại, họ
đã thay mặt Việt Nam tiếp thu và cai quản toàn bộ lãnh thổ, vùng biển, hải đảo.
Họ đã thực hiện và củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Pháp cho quân trú đóng ở các đảo chính
thuộc quần đảo Trường Sa. Các hoạt động này đã được công bố trong Công báo của
Cộng hoà Pháp ngày 26/7/1933. Cũng trong năm đó, Toàn quyền Đông Dương đã ra
Nghị định quy định quần đảo Trường Sa thuộc địa phận quản lý của tỉnh Bà Rịa.
Pháp cũng tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và giao cho tỉnh Thừa
Thiên quản lý. Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân
Quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm đóng trái phép vào năm 1946 và Pháp đã cho
quân thay thế quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến, tiếp
tục các hoạt động nghiên cứu, khai thác ở đây.
Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ), có một đề nghị bổ xung vào
bản dự thảo Hoà ước yêu cầu trao trả lại cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ yêu cầu này với tỉ lệ số phiếu áp đảo là
46 phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng. Cũng tại Hội nghị này, Bộ
trưởng ngoại giao Trần Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn Việt Nam đã tuyên bố khẳng
định chủ quyền lâu đời của người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa mà không gặp bất cứ sự phản đối hay sự bảo lưu nào của cộng đồng quốc
tế.
Năm 1956, Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho chính quyền
Việt Nam Cộng Hoà và chính quyền này đã cho quân ra tiếp quản. Ngay sau khi
tiếp quản, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã xắp xếp,tổ chức lại về mặt hành
chính đối với hai quần đảo này. Théo đó, lập ở mỗi quần đảo thành một xã thuộc
một huyện của đất liền; tiến hành xây bia chủ quyền,duy trì các trạm khí tượng.
Từ những năm 50 của thế kỷ trước, tình hình ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa trở lên phức tạp hơn. Lợi dụng lúc Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định
Geneve (1954). Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía đông của
quần đảo Hoàng Sa (1956). Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã kịch liệt phản đối;
năm 1959 quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía tây quần đảo
Hoàng Sa. Quân đội chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã phát hiện và ngăn chặn, bắt
giữ 82 "ngư dân" Trung Quốc.
Đối với nhóm đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam
Cộng Hoà tiếp tục quản lý cho đến năm 1974. Năm 1974, một lần nữa trong lúc
"tranh tối, tranh sáng" Trung Quốc dùng không quân, hải quân chiếm
luôn phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà và
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã kịch liệt phản đối
hành động xâm lược này của Trung Quốc. Năm 1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà
sụp đổ, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp quản đầy đủ các đảo do quân
đội chính quyền Việt Nam Cộng Hoàcai quản trên Biển Đông. Nhà nước Việt Nam
thống nhất sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của người Việt Nam trên các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn bản hành chính nhà nước
thành lập các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa, cũng như hoàn thiện
việc quản lý hành chính trên các quần đào này.
Trước năm 1988, Trung Quốc chưa có bất kỳ sự hiện diện nào của mình ở
quần Trường Sa, nhưng đột nhiên, ngày 14/3/1988 Trung Quốc ngang nhiên dùng vũ
lực đánh chiếm trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, buộc
một lần nữa Việt Nam phải đổ máu để bảo vệ chủ quyền của mình.
Bốn là, dưới ánh sáng của luật pháp và công lý quốc tế, Viêt Nam có đầy đủ chúng
cứ lịch sử và cơ sở pháp lý đề khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của
mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau khi Công ước quốc tế về Luật
biển ra đời (1982) và có hiệu lực (1994), Việt Nam là một trong 157 nước ký Công ước và Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày
23.06.1994. Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 mà Việt Nam tham
gia từ ngày 23.06.1994, căn cứ vào các tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam đã có
từ trước tới nay và thực tiễn lịch sử, ngày 12.05.1977 và ngày 12.11.1982,
Chính phủ Việt Nam đã ra Tuyên bố về đường cơ sở, vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa Việt Nam. Tiếp đó, ngày 21.06.2012, Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam đã thông qua Luật Biển Việt Nam và được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam công
bố ngày 02.07.2012. Cũng như các quốc gia ven biển trên thế giới, nước ta có 5 vùng biển: Nội thuỷ
nằm bên trong đường cơ sở; lãnh
hải có chiều rộng 12 hải lý;
vùng tiếp giáp lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý; vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường
cơ sở; thềm lục địa có thể kéo dài ra tới 350 hải lý
Điều đáng chú ý ở đây là nội
dung khẳng định chủ quyền của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với công ước quốc tế.
Việt Nam đã và đang thể hiện rất rõ trách nhiệm của của mình trước cộng đồng quốc
tế và cho rằng: mọi sự tùy tiện chiếm cứ của nước ngoài dù có bằng vũ lực hay
không đều bất hợp pháp và vô hiệu lực.
Một yêu cầu hết sức khách quan
đặt ra cho tất cả các nước có hoạt động liên quan tới Biển Đông là phải tuân thủ
luật pháp chung mà cộng đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia ven Biển Đông,
đã dày công vun dựng đó là Công ước Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982. Theo
đó, khi vận dụng Công ước để thực thi chủ quyền và quyền chủ quyền đối với nội
thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, các quốc gia
ven Biển Đông cần có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền và quyền
chủ quyền của các nước khác. Trong thời đại văn minh, sử dụng vũ lực, đe dọa sử
dụng vũ lực để cưỡng chiếm lãnh thổ nước khác là một hành động không thể chấp
nhận.
Hãy tôn trọng lịch sử, hành động với tinh thần thượng tôn pháp luật; tôn
trọng bạn bè, đối tác và hành xử của những quốc gia văn minh,;giải quyết các
tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng
xử của khu vực. Hãy cùng nhau chung sức theo hướng biến Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét